Ăn cắp vặt có bị xử phạt vi phạm hành chính không?
Hành vi ăn cắp vặt có thể coi là hành vi trộm cắp tài sản với giá trị tài sản nhỏ, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Đây là một hành vi vi phạm pháp luật và gây ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh trật tự xã hội, đồng thời làm suy giảm niềm tin của cộng đồng vào sự bảo vệ tài sản cá nhân. Những đối tượng thực hiện hành vi ăn cắp vặt thường lợi dụng sự sơ hở, thiếu cảnh giác của người khác để trộm cắp những món đồ có giá trị nhỏ như điện thoại, ví tiền, xe đạp, hoặc các vật dụng cá nhân khác.
Vì thế khi thực hiện hành vi ăn cắp vặt với giá trị nhỏ sẽ bị xử phạt hành chính theo khoản 1 Điều 15 Nghị định 144/2021/NĐ-CP như sau: “1. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Trộm cắp tài sản, xâm nhập vào khu vực nhà ở, kho bãi hoặc địa điểm khác thuộc quản lý của người khác nhằm mục đích trộm cắp, chiếm đoạt tài sản;
b) Công nhiên chiếm đoạt tài sản;
c) Dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản hoặc đến thời điểm trả lại tài sản do vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng, mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
d) Không trả lại tài sản cho người khác do vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng nhưng sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản;
đ) Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp.”
Như vậy, hành vi ăn cắp vặt dù có giá trị tài sản nhỏ nhưng vẫn bị xử lý nghiêm khắc theo quy định của pháp luật. Việc xử phạt hành chính đối với hành vi này không chỉ nhằm răn đe, ngăn chặn tình trạng trộm cắp mà còn góp phần bảo vệ quyền lợi và tài sản hợp pháp của công dân. Đồng thời, nó cũng thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật trong việc duy trì trật tự xã hội, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của mọi người.
Ăn cắp vặt bị phạt bao nhiêu năm tù?
Hành vi ăn cắp vặt được coi là hành vi lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản của người khác với giá trị nhỏ bằng việc lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của chủ sở hữu, người quản lý tài sản, hoặc lợi dụng hoàn cảnh mà người quản lý tài sản không biết. Đây là một trong những hành vi phạm pháp thường xảy ra trong đời sống hàng ngày. Những kẻ thực hiện hành vi này thường chọn những lúc nạn nhân không để ý, mất cảnh giác hoặc lợi dụng những tình huống đông người, hỗn loạn để thực hiện ý đồ chiếm đoạt tài sản. Hành vi này không chỉ gây thiệt hại về mặt tài sản cho nạn nhân mà còn tạo ra sự bất an, mất tin tưởng trong cộng đồng.
Trong một số trường hợp đặc biệt, nếu ăn cắp vặt với giá trị trên 2 triệu hoặc rơi vào các trường hợp quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi bởi khoản 34 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự như sau:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
đ) Tài sản là di vật, cổ vật.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
đ) Hành hung để tẩu thoát;
e) Tài sản là bảo vật quốc gia;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.”
Lưu ý: Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, mọi hình phạt đối với Tội trộm cắp tài sản đều có thể áp dụng với người từ đủ 16 tuổi trở lên.
Riêng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, chỉ phải chịu hình phạt tù đối với tội trộm cắp tài sản trên 200 triệu; lợi dụng thiên tai, dịch bệnh hoặc lợi dụng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp để trộm cắp tài sản.
Xem thêm: Hợp đồng thế chấp tài sản
Trường hợp ăn cắp vặt có thể chuyển hóa thành Tội cướp tài sản
Thông thường, những tài sản bị chiếm đoạt trong các vụ ăn cắp vặt có giá trị không lớn, nhưng hành vi này vẫn bị pháp luật nghiêm trị. Đặc biệt, nếu người thực hiện hành vi bị phát hiện, họ có thể bị xử phạt hành chính hoặc thậm chí là bị truy cứu trách nhiệm hình sự tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của vụ việc và giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Những hình phạt này không chỉ nhằm mục đích trừng phạt mà còn mang tính răn đe, phòng ngừa các hành vi vi phạm tương tự trong tương lai. Vậy trong trường hợp nào ăn cắp vặt có thể chuyển hóa thành Tội cướp tài sản?
Theo tinh thần của Mục 6 Phần I, Thông tư liên tịch 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP, tuy đã hết hiệu lực nhưng vẫn được sử dụng để giải thích hành vi “hành hung để tẩu thoát” của tội trộm cắp tài sản như sau:
“6.1. Phạm tội thuộc trường hợp “hành hung để tẩu thoát” là trường hợp mà người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản, nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ thì đã có những hành vi chống trả lại người bắt giữ hoặc người bao vây bắt giữ như đánh, chém, bắn, xô ngã… nhằm tẩu thoát.
6.2. Nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản, nhưng đã bị người bị hại hoặc người khác giành lại, mà người phạm tội tiếp tục dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc tấn công người bị hại hoặc người khác nhằm chiếm đoạt cho được tài sản, thì trường hợp này không phải là “hành hung để tẩu thoát” mà đã có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội cướp tài sản.”
Như vậy, có 2 trường hợp mà tội trộm cắp tài sản chuyển hóa thành cướp tài sản:
Trường hợp do chưa chiếm đoạt được tài sản mà người phạm tội dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc tấn công người bị hại hoặc người khác để chiếm đoạt tài sản cho bằng được.
Trường hợp người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản, nhưng do chủ tài sản hoặc người khác đã lấy lại được tài sản hoặc đang giành lại tài sản từ tay người phạm tội mà người phạm tội dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để chiếm đoạt tài sản bằng được.
Trong hai trường hợp này, hành vi dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực để chiếm đoạt được tài sản của người phạm tội đã đủ yếu tố cấu thành tội cướp tài sản.
Do đó, hành vi ăn cắp vặt nếu đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản mà lại có các hành vi nêu trên sẽ chuyển hóa thành tội cướp tài sản tại Điều 168 Bộ luật Hình sự 2015 và bị truy cứu trách nhiệm hình sự như sau:
“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;
d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
e) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
g) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
h) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;
c) Làm chết người;
d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
6. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
Như vậy, hành vi trộm cắp tài sản nếu có thêm các yếu tố hành hung hoặc đe dọa để tẩu thoát, hoặc dùng vũ lực để chiếm đoạt tài sản bằng được, sẽ được coi là tội cướp tài sản. Hành vi này không chỉ vi phạm nghiêm trọng quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn gây ra sự lo lắng, bất an trong xã hội, và vì thế, cần phải bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
Tham khảo thêm bài viết:
- Vô tình gây cháy tài sản của hàng xóm khi đốt vàng mã có bị xử phạt không?
- Cố ý đập phá tài sản của người khác bị xử lý như thế nào?
- Mượn tài sản người khác mà không trả có bị đi tù không?
Câu hỏi thường gặp
Dấu hiệu cơ bản của tội trộm cắp tài sản bao gồm
+ Hành vi luôn có xâm phạm tới quyền sở hữu nhưng không xâm phạm tới sức khỏe, tính mạng của nạn nhân.
– Có tính chất lén lút nhằm che giấu hành vi phi pháp.
– Tài sản thuộc sở hữu của người khác và đang trong sự quản lý của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm.
Cá nhân có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản thì được xem là cướp tài sản.
Những hành vi của người phạm tội cướp tài sản xâm phạm tới quyền sở hữu, sức khỏe và tính mạng của nạn nhân.