Đối tượng được xét cấp thẻ nhà báo?
Thẻ nhà báo còn giúp người làm báo được hưởng quyền lợi đặc biệt trong việc tác nghiệp, như quyền được tham gia các sự kiện, hội nghị, họp báo, quyền được cung cấp thông tin từ các cơ quan, tổ chức có liên quan, cũng như được bảo vệ quyền lợi khi thực hiện nhiệm vụ báo chí. Đặc biệt, thẻ nhà báo còn giúp phân biệt giữa những người làm báo chân chính và những cá nhân mạo danh để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng đến uy tín của ngành báo chí.
Căn cứ vào Điều 26 của Luật Báo chí năm 2016, việc cấp thẻ nhà báo được quy định cụ thể đối với một số đối tượng nhất định. Đầu tiên, các lãnh đạo chủ chốt của cơ quan báo chí như tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, giám đốc, phó giám đốc, tổng biên tập, phó tổng biên tập của các cơ quan báo chí và thông tấn sẽ được xét cấp thẻ nhà báo. Bên cạnh đó, các trưởng phòng, phó trưởng phòng nghiệp vụ báo chí của các cơ quan báo chí, thông tấn cũng thuộc đối tượng này. Đặc biệt, các phóng viên, biên tập viên của các cơ quan báo chí, thông tấn cũng sẽ được cấp thẻ nhà báo nếu đáp ứng đủ các yêu cầu.
Ngoài ra, các cá nhân làm công việc quay phim, đạo diễn chương trình phát thanh, truyền hình (trừ phim truyện) tại các đơn vị được cấp phép hoạt động báo chí trong lĩnh vực phát thanh, truyền hình và sản xuất phim tài liệu của Nhà nước cũng là đối tượng được cấp thẻ nhà báo. Điều này cũng bao gồm các phóng viên, biên tập viên, và những người phụ trách công tác phóng viên, biên tập tại các đài truyền thanh, truyền hình cấp huyện và tương đương.
Đặc biệt, trong trường hợp những người đã được cấp thẻ nhà báo nhưng được điều chuyển sang làm công việc khác vẫn có thể tiếp tục có tác phẩm báo chí được sử dụng, và nếu có sự xác nhận của cơ quan báo chí, họ vẫn có thể được xét cấp thẻ nhà báo trong những trường hợp cụ thể. Các trường hợp này bao gồm: chuyển công tác đến các đơn vị không trực tiếp thực hiện nghiệp vụ báo chí, chuyển sang công tác giảng dạy chuyên ngành báo chí tại các cơ sở giáo dục đại học, hoặc làm cán bộ chuyên trách tại hội nhà báo các cấp, trực tiếp tham gia công tác quản lý nhà nước về báo chí.
Như vậy, căn cứ theo quy định này, có tổng cộng sáu nhóm đối tượng sẽ được xét cấp thẻ nhà báo, đảm bảo rằng những người làm trong ngành báo chí, từ các lãnh đạo đến phóng viên, biên tập viên, đều có thể nhận được sự công nhận chính thức thông qua thẻ nhà báo.
Mạo danh nhà báo hoạt động báo chí phạt bao nhiêu tiền?
Việc cấp và sử dụng thẻ nhà báo không chỉ là quyền lợi mà còn là nghĩa vụ của người làm báo trong việc thực hiện các quy định của pháp luật, đảm bảo tính minh bạch và đúng đắn trong mọi hoạt động báo chí. Thẻ nhà báo là công cụ không thể thiếu để duy trì sự chính danh và uy tín trong ngành báo chí, đồng thời góp phần vào việc xây dựng một nền báo chí phát triển bền vững, lành mạnh và phục vụ lợi ích chung của xã hội.
Theo điểm a khoản 2 Điều 6 của Nghị định 119/2020/NĐ-CP, đã được sửa đổi bởi điểm c và điểm d khoản 8 Điều 2 Nghị định 14/2022/NĐ-CP, việc mạo danh nhà báo để thực hiện hoạt động báo chí sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính. Cụ thể, mức phạt tiền đối với hành vi mạo danh nhà báo, phóng viên sẽ dao động từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng. Điều này có nghĩa là những cá nhân cố ý giả mạo danh tính nhà báo hoặc phóng viên để thực hiện các hoạt động báo chí trái phép sẽ phải chịu hình thức xử phạt nghiêm khắc này.
Ngoài ra, hành vi lợi dụng tư cách nhà báo, phóng viên để can thiệp, cản trở hoạt động hợp pháp của tổ chức, cá nhân cũng bị xử phạt với mức phạt tương tự. Đồng thời, việc sử dụng thẻ nhà báo đã bị sửa chữa, tẩy xóa để thực hiện các hoạt động báo chí cũng là hành vi vi phạm và sẽ bị phạt tiền trong khoảng từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng, như quy định.
Theo Khoản 2 Điều 4 của Nghị định 119/2020/NĐ-CP, mức phạt tiền đối với các hành vi vi phạm hành chính quy định tại các Chương II và III của Nghị định này là mức phạt áp dụng đối với tổ chức, ngoại trừ những hành vi vi phạm quy định tại Điều 6, mức phạt sẽ áp dụng đối với cá nhân. Đặc biệt, đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính, mức phạt đối với cá nhân chỉ bằng 1/2 mức phạt đối với tổ chức. Điều này cho thấy, ngoài mức phạt nghiêm khắc đối với hành vi mạo danh nhà báo, các tổ chức có liên quan cũng có thể phải chịu mức phạt tương ứng nếu có hành vi vi phạm.
Như vậy, theo các quy định hiện hành, hành vi mạo danh nhà báo để thực hiện hoạt động báo chí không chỉ vi phạm đạo đức nghề nghiệp mà còn có thể bị xử phạt hành chính với mức tiền phạt lên đến hàng chục triệu đồng, nhằm bảo vệ sự chính thống và uy tín của ngành báo chí.
Xem thêm: Tổ chức thi hoa hậu trái phép bị phạt bao nhiêu
Thời hiệu xử phạt đối với người mạo danh nhà báo để hoạt động báo chí
Hoạt động báo chí là các hoạt động liên quan đến việc thu thập, biên tập, sản xuất và phát hành thông tin dưới nhiều hình thức khác nhau, nhằm cung cấp tin tức, sự kiện, phân tích, bình luận và ý kiến cho công chúng. Mục đích của hoạt động báo chí là thông báo, tuyên truyền, giải thích và cung cấp thông tin một cách khách quan, chính xác, kịp thời, giúp công chúng nhận thức về các vấn đề xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa và các lĩnh vực khác trong đời sống. Pháp luật quy định về thời hiệu xử phạt đối với người mạo danh nhà báo để hoạt động báo chí là bao lâu?
Theo Khoản 4 Điều 4 Nghị định 119/2020/NĐ-CP, được bổ sung bởi điểm b khoản 5 Điều 2 Nghị định 14/2022/NĐ-CP, quy định về thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực báo chí, xuất bản và in ấn như sau: Thời hiệu xử phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính trong các hoạt động này là 02 năm. Điều này có nghĩa là cơ quan có thẩm quyền có quyền xử lý các hành vi vi phạm hành chính trong vòng 02 năm kể từ thời điểm hành vi vi phạm xảy ra hoặc từ khi hành vi vi phạm được phát hiện.
Cụ thể, đối với các hành vi vi phạm liên quan đến hoạt động báo chí, nếu người vi phạm mạo danh nhà báo, phóng viên để thực hiện các hoạt động báo chí trái phép, thì thời gian để cơ quan chức năng xử phạt sẽ được tính từ lúc hành vi vi phạm này xảy ra. Nếu hành vi vi phạm đã kết thúc, nhưng chưa quá 02 năm kể từ khi hành vi đó chấm dứt, cơ quan chức năng vẫn có quyền xử phạt hành chính đối với người vi phạm. Trong trường hợp hành vi vi phạm đang tiếp tục được thực hiện, thời hiệu xử phạt sẽ được tính từ thời điểm hành vi đó bị phát hiện.
Việc áp dụng thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí sẽ tuân thủ theo quy định của Khoản 1 Điều 8 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP, ban hành ngày 23 tháng 12 năm 2021, quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính. Điều này nhằm đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong việc xử lý các hành vi vi phạm, đồng thời khuyến khích sự tuân thủ pháp luật trong lĩnh vực báo chí.
Như vậy, đối với hành vi mạo danh nhà báo, thời hiệu xử phạt là 02 năm, từ thời điểm hành vi vi phạm xảy ra hoặc từ khi phát hiện hành vi vi phạm, trong phạm vi này, các cơ quan có thẩm quyền có quyền áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đối với những người có hành vi vi phạm.
Mời bạn xem thêm:
- Thủ tục tổ chức đấu thầu tín phiếu kho bạc Nhà nước thế nào?
- Mẫu giấy xác nhận về việc cho thuê doanh nghiệp tư nhân năm 2024
- Theo quy định mới đất thổ cư có bị quy hoạch không?
Câu hỏi thường gặp:
Để được cấp thẻ nhà báo phải đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 27 Luật Báo chí 2016, cụ thể:
– Phải là công dân nước Việt Nam và có địa chỉ thường trú tại Việt Nam.
– Có bằng tốt nghiệp cấp đại học trở lên; nếu là người dân tộc thiểu số đang thực hiện ấn phẩm báo in, chương trình truyền hình, phát thanh hoặc chuyên trang của báo điện tử được thể hiện bằng tiếng của dân tộc thiểu số thì bắt buộc phải có bằng tốt nghiệp cao đẳng trở lên.
– Nếu cấp thẻ lần đầu thì người được xét cấp thẻ phải có thời gian công tác liên tục từ 02 năm trở lên ở cơ quan báo chí nơi đề nghị cấp thẻ, thời gian này được tính cho đến thời điểm xét cấp thẻ nhà báo, trừ tổng biên tập tạp chí khoa học và các trường hợp khác theo quy định pháp luật.
– Có đề nghị cấp thẻ nhà báo của cơ quan báo chí hoặc cơ quan nơi người được xét cấp thẻ công tác.
– Nếu đối tượng xét cấp thẻ là biên tập viên, phóng viên, người phụ trách công tác phóng viên, biên tập ở đài truyền thanh, truyền hình cấp huyện và tương đương thì ngoài đáp ứng các điều kiện nêu trên, còn phải đảm bảo các tiêu chuẩn dưới đây:
Là công tác viên thường xuyên của đài phát thanh, truyền hình tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương.
Có ít nhất 12 tác phẩm đã được phát sóng trên đài phát thanh, truyền hình tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương trong 01 năm tính đến khi xét cấp thẻ nhà báo.
Nếu cấp thẻ lần đầu thì còn phải có thời gian công tác liên tục từ 02 năm trở lên ở đài truyền thanh, truyền hình cấp huyện, thời gian này được tính cho đến thời điểm được xét cấp thẻ nhà báo.
Được đài phát thanh, truyền hình tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương có đề nghị cấp thẻ.
Căn cứ vào khoản 3 Điều 27 Luật Báo chí 2016 quy định như sau:
Điều kiện, tiêu chuẩn được xét cấp thẻ nhà báo
…
3. Các trường hợp sau đây không được xét cấp thẻ nhà báo:
a) Không thuộc các đối tượng quy định tại Điều 26 của Luật này;
b) Đã vi phạm quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo;
c) Đã bị xử lý kỷ luật từ hình thức khiển trách trở lên theo quy định của pháp luật về công chức, viên chức và pháp luật về lao động mà chưa hết thời hạn 12 tháng tính đến thời Điểm xét cấp thẻ;
d) Là đối tượng liên quan trong các vụ án chưa có kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
đ) Đã bị kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án mà chưa được xóa án tích;
e) Bị thu hồi thẻ nhà báo do vi phạm quy định của pháp luật mà thời gian thu hồi thẻ chưa quá 12 tháng kể từ ngày ra quyết định đến thời Điểm xét cấp thẻ.
Như vậy, những trường hợp nêu trên sẽ không được xét cấp thẻ nhà báo.