Đảng viên đánh bạc bị xử lý thế nào?

Quỳnh Trang, Thứ tư, 24/07/2024 - 10:58
Đánh bạc là một trong những hành vi mà nhiều người hiện nay vi phạm nhiều nhất. Đây là một vấn đề nghiêm trọng không chỉ vì nó ảnh hưởng đến tài chính cá nhân mà còn vì nó gây ra những hệ lụy xã hội sâu rộng. Hành vi đánh bạc thường dẫn đến tình trạng mất kiểm soát tài chính, nợ nần chồng chất, và ảnh hưởng xấu đến đời sống gia đình và mối quan hệ xã hội. Nhiều người khi sa vào cạm bẫy này thường không chỉ mất đi tài sản mà còn gặp phải những vấn đề về tâm lý, dẫn đến căng thẳng, lo âu và các rối loạn tâm thần khác. Vậy khi Đảng viên đánh bạc bị xử lý thế nào?

Đảng viên đánh bạc bị xử lý thế nào?

Đánh bạc hiện đang trở thành một trong những hành vi vi phạm phổ biến nhất trong xã hội ngày nay. Đây không chỉ là vấn đề nghiêm trọng do ảnh hưởng trực tiếp đến tài chính cá nhân mà còn bởi những hệ lụy xã hội sâu rộng mà nó gây ra. Hành vi đánh bạc thường dẫn đến tình trạng mất kiểm soát tài chính, nợ nần chồng chất, và ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống gia đình cũng như mối quan hệ xã hội. Nhiều người khi sa vào cạm bẫy này không chỉ đánh mất tài sản mà còn phải đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng về tâm lý, chẳng hạn như căng thẳng, lo âu và các rối loạn tâm thần khác.

Theo Quy định số 69-QĐ/TW, hành vi đánh bạc của Đảng viên có thể dẫn đến các hình thức kỷ luật nghiêm khắc, với hình thức cao nhất là khai trừ khỏi Đảng. Cụ thể, nếu Đảng viên là chủ mưu, khởi xướng hoặc tổ chức đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào, hoặc đã từng bị xử lý về hành vi đánh bạc nhưng vẫn tiếp tục tái phạm, thì sẽ phải chịu hình thức kỷ luật cao nhất này. Đây là quy định nhằm thể hiện sự nghiêm khắc của Đảng trong việc đấu tranh chống lại các hành vi vi phạm pháp luật và đạo đức của Đảng viên.

Trong trường hợp Đảng viên không đến mức phải khai trừ, còn có thể bị áp dụng các hình thức kỷ luật nhẹ hơn, tùy thuộc vào mức độ vi phạm. Cụ thể, nếu Đảng viên đánh bạc gây ra hậu quả nghiêm trọng hoặc là chủ mưu, tổ chức đánh bạc dưới mọi hình thức, hoặc đã từng bị xử lý mà vẫn tái phạm, thì cũng sẽ bị khai trừ khỏi Đảng. Ngược lại, nếu Đảng viên chỉ vi phạm ở mức độ nhẹ hơn, có thể bị cảnh cáo hoặc cách chức theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 49 Quy định 69 năm 2022.

Ngoài ra, Điều 2 Hướng dẫn số 04-HD/UBKTTW quy định rằng Đảng viên vi phạm có thể bị kỷ luật cảnh cáo hoặc cách chức (nếu có chức vụ). Trong trường hợp này, tổ chức Đảng có thẩm quyền sẽ căn cứ vào các quy định nêu trên để xem xét, quyết định cụ thể hình thức kỷ luật, có thể là cảnh cáo hoặc cách chức một, một số hoặc tất cả các chức vụ trong Đảng đối với Đảng viên đó. Nếu Đảng viên vi phạm bị kỷ luật khiển trách hoặc cảnh cáo, và nếu xét thấy không còn đủ uy tín, thì tổ chức Đảng có thẩm quyền có thể quyết định miễn nhiệm hoặc đề nghị cho thôi giữ chức vụ.

Như vậy, Đảng viên đánh bạc nhưng chưa bị xử lý sẽ có thể bị cảnh cáo, cách chức hoặc miễn nhiệm, thôi giữ chức vụ nếu có chức vụ. Tuy nhiên, nếu đã bị xử lý, tùy vào mức độ vi phạm, tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng, Đảng viên có thể bị áp dụng hình thức kỷ luật nặng nhất là khai trừ khỏi Đảng.

Có thể thấy, hành vi đánh bạc được coi là một trong những hành vi bị xử lý kỷ luật nặng đối với Đảng viên, không chỉ vì đây là một trong những tệ nạn xã hội đặc biệt nghiêm trọng mà còn vì nó nằm trong danh sách các hành vi mà Đảng viên không được phép thực hiện, được quy định cụ thể tại Điều 18 Quy định 37-QĐ/TW năm 2021. Theo quy định này, việc tổ chức, tham gia đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào đều bị cấm, đồng thời việc lôi kéo, xúi giục, kích động người khác tham gia đánh bạc cũng là hành vi bị nghiêm cấm.

Hướng dẫn 02-HD/UBKTTW đã chi tiết hóa quy định này bằng cách nêu rõ rằng Đảng viên không chỉ bị kỷ luật khi trực tiếp tham gia đánh bạc mà còn khi tổ chức, lôi kéo, xúi giục hoặc kích động người khác tham gia đánh bạc. Điều này phản ánh sự nghiêm khắc của Đảng trong việc xử lý các hành vi vi phạm liên quan đến đánh bạc, nhằm bảo đảm tính kỷ cương và đạo đức của tổ chức Đảng.

Theo nguyên tắc kỷ luật Đảng viên được nêu tại khoản 9 Điều 2 Quy định 69-QĐ/TW, Đảng viên vi phạm pháp luật phải chịu xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp vi phạm đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, bị truy nã, hoặc bị tòa án tuyên phạt từ hình phạt cải tạo không giam giữ trở lên, Đảng viên đó sẽ bị khai trừ khỏi Đảng. Nếu hình phạt thấp hơn cải tạo không giam giữ, thì tùy thuộc vào nội dung, tính chất, mức độ hậu quả, nguyên nhân vi phạm và các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ, Đảng viên sẽ phải chịu hình thức kỷ luật Đảng tương ứng. Ngoài ra, nếu hành vi vi phạm gây ra thất thoát tài chính, tài sản của Đảng, Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân, thì Đảng viên đó còn phải xem xét trách nhiệm và bồi thường theo quy định.

Đảng viên đánh bạc bị xử lý thế nào?

Điều quan trọng là việc kỷ luật Đảng viên không làm ảnh hưởng đến việc xử lý hình sự nếu có dấu hiệu tội phạm. Đặc biệt, Đảng viên sẽ bị khai trừ khỏi Đảng nếu có hành vi đánh bạc và phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc bị tuyên án phạt cải tạo không giam giữ trở lên. Trong các trường hợp hình phạt nhẹ hơn cải tạo không giam giữ, hình thức kỷ luật Đảng sẽ được quyết định dựa trên nội dung, mức độ, hậu quả, tính chất của hành vi vi phạm cùng với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ.

Xem ngay: Người phạm tội có thể đầu thú tại cơ quan nào

Đảng viên đánh bạc sẽ bị phạt tù bao nhiêu năm?

Việc đánh bạc không chỉ dừng lại ở các vấn đề cá nhân mà còn có thể dẫn đến các hành vi phạm pháp khác như lừa đảo, cướp giật hoặc tham gia vào các hoạt động tội phạm tổ chức. Điều này làm gia tăng tình trạng tội phạm trong xã hội và đẩy nhiều người vào tình trạng ngày càng tồi tệ hơn. Vậy khi Đảng viên đánh bạc sẽ bị phạt tù bao nhiêu năm?

Đánh bạc không chỉ là hành vi bị cấm đối với Đảng viên mà còn là hành vi vi phạm pháp luật. Do đó, nếu hành vi đánh bạc của Đảng viên có dấu hiệu tội phạm, người này có thể phải đối mặt với việc chịu trách nhiệm hình sự bên cạnh các hình thức kỷ luật của Đảng.

Theo quy định tại khoản 120 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017, đối với những trường hợp có dấu hiệu tội phạm, mức xử lý hình sự có thể rất nghiêm khắc. Cụ thể, Đảng viên đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào, nếu thua bằng tiền hoặc hiện vật trị giá từ 5 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng, hoặc dưới 5 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính trước đó mà vẫn tái phạm, có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm. Trường hợp hành vi đánh bạc có tính chất chuyên nghiệp, số tiền hoặc hiện vật dùng để đánh bạc trị giá từ 50 triệu đồng trở lên, hoặc khi sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội, thì mức án có thể tăng lên từ 3 năm đến 7 năm tù giam.

Bên cạnh đó, nếu hành vi đánh bạc không đủ nghiêm trọng để truy cứu trách nhiệm hình sự, Đảng viên vẫn có thể bị xử phạt hành chính theo Điều 28 Nghị định 144/2021/NĐ-CP. Cụ thể, phạt tiền từ 1 triệu đến 2 triệu đồng đối với các hành vi đánh bạc trái phép như: tá lả, tổ tôm, xóc đĩa, tú lơ khơ, tam cúc, 3 cây, tứ sắc, đỏ đen, 13 lá, đá gà, tài xỉu, hoặc đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử trái phép.

Tóm lại, Đảng viên vi phạm hành vi đánh bạc sẽ phải chịu xử phạt hành chính hoặc trách nhiệm hình sự, tùy theo mức độ và tính chất của hành vi vi phạm. Đồng thời, Đảng viên còn phải đối mặt với các hình thức kỷ luật của Đảng, với mức kỷ luật nghiêm khắc nhất là khai trừ khỏi Đảng.

Tham khảo thêm bài viết:

Câu hỏi thường gặp

Chủ thể của tội đánh bạc là những ai?

Căn cứ Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi khoản 3 Điều 1 Luật Sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định tuổi chịu trách nhiệm của tội đánh bạc là người từ đủ 16 tuổi trở lên. Cụ thể:
– Về độ tuổi: Người phạm tội phải đủ 16 tuổi trở lên.
– Về năng lực trách nhiệm hình sự: Người phạm tội phải có năng lực trách nhiệm hình sự.
– Về lỗi: Người phạm tội phải có lỗi cố ý, bao gồm cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp.

Khách thế của tội đánh bạc là gì?

Khách thể của tội đánh bạc là những quan hệ xã hội mà hành vi phạm tội xâm phạm đến. Cụ thể, tội đánh bạc xâm phạm đến trật tự an toàn công cộng.
Trật tự an toàn công cộng là trật tự về xã hội, bao gồm các quy tắc, chuẩn mực về hành vi của con người nhằm đảm bảo an toàn cho xã hội, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân và sự an toàn của con người.

5/5 - (1 bình chọn)