Những lý do cần phải xác định thuế giá trị gia tăng
Mỗi cơ sở kinh doanh đều có những hoạt động sản xuất, kinh doanh đặc thù, tương ứng với các loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau mà họ cung cấp và xuất bán ra thị trường. Ngoài các hoạt động mua bán hàng hóa thông thường, các doanh nghiệp còn thực hiện nhiều hoạt động kinh doanh khác như nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài, xuất tiêu dùng nội bộ, tổ chức các chương trình khuyến mại, hoặc thực hiện các giao dịch chuyển nhượng bất động sản. Mỗi một hoạt động này đều có các đặc thù riêng về việc tính thuế giá trị gia tăng (GTGT). Do đó, doanh nghiệp cần phải xác định chính xác giá tính thuế GTGT cho từng loại hoạt động, từ đó tính toán được thuế GTGT đầu ra mà đơn vị phải nộp vào ngân sách nhà nước. Việc này không chỉ giúp doanh nghiệp tuân thủ các quy định của pháp luật mà còn góp phần vào việc quản lý tài chính và tối ưu hóa chi phí thuế của doanh nghiệp.
Nguyên tắc xác định giá tính thuế GTGT được quy định ra sao?
Nguyên tắc xác định giá tính thuế giá trị gia tăng (GTGT) là một yếu tố quan trọng trong việc xác định nghĩa vụ thuế của các doanh nghiệp, đảm bảo sự công bằng và minh bạch trong việc thu thuế. Theo đó, giá tính thuế GTGT được xác định là giá bán hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp thu được từ khách hàng, chưa bao gồm thuế GTGT. Điều này có nghĩa là khi xác định giá tính thuế, các doanh nghiệp cần phải loại trừ phần thuế GTGT mà họ phải nộp cho nhà nước.
Ngoài ra, giá tính thuế GTGT không bao gồm các khoản thuộc đối tượng không áp dụng thuế GTGT, ví dụ như một số mặt hàng, dịch vụ được miễn thuế theo quy định của pháp luật. Để đảm bảo tính chính xác, giá tính thuế cần được căn cứ vào giá trị hợp lý của hàng hóa, dịch vụ tại thời điểm xuất bán, phản ánh đúng giá trị thực tế của giao dịch. Để xác định giá tính thuế, các doanh nghiệp cần phải có đầy đủ giấy tờ, chứng từ hợp lệ, bao gồm hóa đơn chứng minh giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ, nhằm đảm bảo tính minh bạch và hợp pháp của việc tính thuế.
Mặc dù giá tính thuế GTGT được xác định bằng đồng Việt Nam, nhưng trong trường hợp doanh nghiệp có doanh thu bán hàng hóa, dịch vụ bằng ngoại tệ, họ cần phải quy đổi doanh thu đó ra đồng Việt Nam. Việc quy đổi phải thực hiện theo tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm phát sinh doanh thu, để làm căn cứ tính giá tính thuế một cách chính xác.
Đặc biệt, đối với các loại hàng hóa, dịch vụ có phụ thu hoặc phí thu thêm ngoài giá hàng hóa, dịch vụ, khoản phụ thu và phí này cũng cần được tính vào giá tính thuế GTGT nếu tổ chức kinh doanh được hưởng lợi từ các khoản này. Tuy nhiên, nếu các khoản phụ thu được cơ sở kinh doanh thu theo chế độ của nhà nước và không tính vào doanh thu, thì các khoản này sẽ không phải chịu thuế GTGT.
Trong trường hợp các doanh nghiệp thực hiện đăng ký với cơ quan thuế hoặc cơ quan nhà nước về giá khuyến mại, thì giá tính thuế GTGT sẽ được xác định theo giá đã được đăng ký trong các chương trình khuyến mại, đảm bảo tính đúng đắn và hợp lý trong việc xác định nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp.
Xem thêm: Nợ xấu có mua trả góp được không
Giá tính thuế GTGT đối với hàng trả góp
Thuế GTGT không chỉ là một công cụ quan trọng để nhà nước thu ngân sách, mà còn là một phần không thể thiếu trong việc điều tiết nền kinh tế thị trường, tạo sự công bằng trong các hoạt động kinh tế.
Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 7 của Luật Thuế giá trị gia tăng 2008, hiện có hiệu lực đến hết ngày 30/6/2025, giá tính thuế GTGT đối với hàng hóa bán theo phương thức trả góp, trả chậm được xác định theo giá bán trả một lần chưa có thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, không bao gồm khoản lãi trả góp hay lãi trả chậm. Điều này có nghĩa là khi xác định giá tính thuế GTGT đối với hàng hóa bán trả góp, các khoản lãi phát sinh từ việc trả góp hoặc trả chậm sẽ không được tính vào giá tính thuế, mà chỉ tính trên giá bán của hàng hóa tại thời điểm bán, trước thuế GTGT.
Đến ngày 01/7/2025, khi Luật Thuế giá trị gia tăng 2024 có hiệu lực, quy định về giá tính thuế đối với hàng trả góp vẫn giữ nguyên như trong Luật Thuế giá trị gia tăng 2008. Cụ thể, theo Điều 7 của Luật Thuế giá trị gia tăng 2024, giá tính thuế đối với hàng hóa bán trả góp, trả chậm tiếp tục được xác định là giá bán trả một lần chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng, không tính đến khoản lãi trả góp hay lãi trả chậm. Điều này cho thấy, dù có sự thay đổi trong một số quy định của Luật Thuế giá trị gia tăng qua các năm, nhưng đối với việc xác định giá tính thuế đối với hàng trả góp, nguyên tắc cơ bản vẫn không thay đổi, nhằm đảm bảo tính công bằng và minh bạch trong việc tính thuế đối với các giao dịch bán hàng trả góp.
Do đó, các doanh nghiệp khi bán hàng hóa theo phương thức trả góp cần lưu ý, không tính lãi trả góp vào giá tính thuế GTGT, mà chỉ tính trên giá bán của hàng hóa theo giá bán một lần, chưa bao gồm thuế. Điều này giúp doanh nghiệp tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về thuế, tránh trường hợp bị xử lý vi phạm do tính thuế sai lệch.
Mời bạn xem thêm:
- Hồ sơ bảo hiểm thất nghiệp năm 2024
- Hợp đồng bảo hiểm con người là gì?
- Đội mũ bảo hiểm lưỡi trai có bị phạt không?
Câu hỏi thường gặp:
Căn cứ theo quy định tại Điều 2 Luật Thuế giá trị gia tăng 2008 nêu định nghĩa về thuế GTGT như sau: Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Căn cứ tại Điều 20 Thông tư 219/2013/TT-BTC quy định về nơi nộp thuế thì người nộp thuế kê khai, nộp thuế giá trị gia tăng tại địa phương nơi sản xuất, kinh doanh. Căn cứ theo tình hình hoạt động thực tế để xác định địa điểm nộp thuế giá trị gia tăng phù hợp theo quy định nêu trên.