Quy định pháp luật về ủy quyền như thế nào?
Ủy quyền là một hình thức thỏa thuận giữa các bên, trong đó bên được ủy quyền cam kết thực hiện một hoặc một số công việc nhất định nhân danh bên ủy quyền. Hình thức ủy quyền này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các giao dịch mà còn giúp bên ủy quyền tiết kiệm thời gian và công sức trong việc xử lý các nhiệm vụ cụ thể.
Căn cứ theo quy định tại Điều 135 Bộ luật Dân sự 2015, việc xác lập quyền đại diện có thể diễn ra thông qua nhiều hình thức khác nhau. Cụ thể, quyền đại diện được xác lập chủ yếu dựa trên hai phương thức: thứ nhất là thông qua ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện, được gọi là đại diện theo ủy quyền; thứ hai là thông qua các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, điều lệ của pháp nhân hoặc các quy định của pháp luật, được gọi chung là đại diện theo pháp luật. Điều này cho thấy, việc xác lập quyền đại diện không chỉ phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa các cá nhân mà còn có thể được quy định bởi pháp luật và các cơ quan chức năng. Nhờ vào những quy định này, quyền đại diện trở nên rõ ràng và hợp pháp, tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thực hiện các giao dịch và nghĩa vụ trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Việc hiểu rõ các hình thức xác lập quyền đại diện sẽ giúp các bên liên quan có thể thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của mình một cách hiệu quả và hợp pháp.
Hình thức của ủy quyền hiện nay
Bên được ủy quyền có trách nhiệm hoàn thành công việc theo yêu cầu và trong phạm vi quyền hạn đã được xác định trong văn bản ủy quyền. Sự tin tưởng giữa hai bên là rất quan trọng, bởi bên ủy quyền phải có niềm tin vào khả năng của bên được ủy quyền để thực hiện đúng và đủ các nghĩa vụ của mình.
Căn cứ theo quy định tại Điều 140 Bộ luật Dân sự 2015, thời hạn đại diện có thể được xác định qua nhiều phương thức khác nhau. Trước hết, thời hạn đại diện thường được quy định rõ ràng trong văn bản ủy quyền, theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, điều lệ của pháp nhân hoặc theo các quy định của pháp luật hiện hành. Trong trường hợp không thể xác định rõ thời hạn theo các tiêu chí trên, Bộ luật quy định các cách xác định cụ thể. Nếu quyền đại diện được xác định liên quan đến một giao dịch dân sự cụ thể, thời hạn đại diện sẽ tính đến thời điểm giao dịch đó chấm dứt. Ngược lại, nếu quyền đại diện không liên quan đến giao dịch cụ thể nào, thời hạn sẽ là một năm kể từ thời điểm phát sinh quyền đại diện.
Ngoài ra, đại diện theo ủy quyền có thể chấm dứt trong một số tình huống như thỏa thuận giữa các bên, khi thời hạn ủy quyền đã hết, công việc được ủy quyền đã hoàn thành, hoặc do các lý do như người đại diện hoặc người được đại diện đơn phương chấm dứt, cá nhân qua đời, hay pháp nhân chấm dứt tồn tại. Đối với đại diện theo pháp luật, quyền đại diện sẽ chấm dứt khi người được đại diện đã đủ tuổi thành niên hoặc khôi phục năng lực hành vi, hoặc trong các trường hợp khác được quy định trong Bộ luật hoặc các luật liên quan.
Như vậy, việc quy định rõ ràng về thời hạn đại diện và các trường hợp chấm dứt quyền đại diện không chỉ giúp bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan mà còn tạo ra một khung pháp lý vững chắc, góp phần vào sự minh bạch và hiệu quả trong các giao dịch dân sự hiện nay.
Tìm hiểu thêm: hợp đồng ủy quyền sử dụng đất
Giấy ủy quyền như thế nào là hợp pháp?
Ủy quyền không chỉ đơn thuần là một giao dịch dân sự mà còn phản ánh mối quan hệ hợp tác và sự tin cậy lẫn nhau trong các hoạt động kinh doanh và đời sống hàng ngày. Việc hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của từng bên trong quá trình ủy quyền sẽ góp phần đảm bảo tính hợp pháp và hiệu quả của các giao dịch được thực hiện.
Bản chất của Giấy ủy quyền chính là một giao dịch dân sự, vì vậy, để có giá trị pháp lý, Giấy ủy quyền cần đáp ứng hai điều kiện chính về nội dung và hình thức. Điều kiện đầu tiên là về nội dung, Giấy ủy quyền phải đảm bảo các nội dung ủy quyền không được trái với các nguyên tắc cơ bản đã được quy định tại Điều 3 Bộ luật Dân sự 2015. Cụ thể, các bên phải tuân thủ nguyên tắc bình đẳng, không được phân biệt đối xử vì bất kỳ lý do nào. Ngoài ra, việc ủy quyền phải được thực hiện trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết và thỏa thuận giữa các bên. Hơn nữa, mọi cam kết không được vi phạm các điều cấm của pháp luật và phải phù hợp với đạo đức xã hội. Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt ủy quyền cũng cần phải diễn ra một cách thiện chí và trung thực, không xâm phạm đến lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khác. Cuối cùng, các bên phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình.
Về điều kiện hình thức, cả Bộ luật Dân sự 2005 và 2015 đều không quy định rõ ràng về hình thức Giấy ủy quyền. Việc quy định hình thức ủy quyền chủ yếu được điều chỉnh bởi các luật chuyên ngành. Mặc dù không có quy định tập trung về hình thức, Giấy ủy quyền vẫn được đề cập trong nhiều văn bản khác nhau. Chẳng hạn, theo khoản 1 Điều 107 của Luật Sở hữu trí tuệ 2005, việc ủy quyền trong các thủ tục liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ phải được lập thành giấy ủy quyền. Tương tự, tại khoản 5 Điều 9 của Thông tư số 15/2014/TT-BCA về đăng ký xe, người được ủy quyền cần xuất trình giấy tờ chứng minh và giấy ủy quyền có chứng thực.
Trong một số trường hợp, pháp luật yêu cầu Giấy ủy quyền phải được lập thành văn bản, và có thể yêu cầu công chứng, chứng thực, như khi yêu cầu cấp bản sao trích lục hộ tịch hoặc đăng ký các việc hộ tịch. Theo Điều 2 Thông tư 15/2015/TT-BTP, văn bản ủy quyền phải được công chứng hoặc chứng thực để có giá trị pháp lý. Như vậy, tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể, Giấy ủy quyền cần phải được công chứng hoặc chứng thực thì mới đảm bảo giá trị pháp lý, tạo điều kiện cho các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình một cách hợp pháp và hiệu quả.
Mời bạn xem thêm:
- Mẫu tờ khai đề nghị cấp giấy thông hành năm 2024
- Dịch vụ đăng ký khai sinh khi không kết hôn
- Dịch vụ sửa giấy khai sinh hiện nay như thế nào?
Câu hỏi thường gặp
– Khi thỏa thuận thời hạn của hợp đồng ủy quyền, các bên cần lưu ý thỏa thuận một ngày, tháng, năm cụ thể hoặc một số lượng ngày, tháng hoặc năm tính từ mốc ngày bắt đầu hiệu lực của hợp đồng ủy quyền.
– Các bên có thể thỏa thuận hợp đồng ủy quyền sẽ đương nhiên bị chấm dứt trong các trường hợp:
+ Công việc được uỷ quyền đã hoàn thành;
+ Người được đại diện, người đại diện là cá nhân chết; người được đại diện, người đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại;
+ Người đại diện không còn đủ điều kiện phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện;
+ Căn cứ khác làm cho việc đại diện không thể thực hiện được.
Bộ luật Dân sự 2015 không quy định cụ thể về giấy ủy quyền, mà quy định về ủy quyền thông qua hợp đồng.
Theo quy định tại điều 563 Bộ luật Dân sự 2015 thời hạn của hợp đồng ủy quyền được xác định trong ba trường hợp:
– Thời hạn ủy quyền do các bên thỏa thuận;
– Thời hạn ủy quyền do pháp luật quy định;
– Nếu không có thỏa thuận và pháp luật không có quy định thì hợp đồng ủy quyền có hiệu lực 01 năm, kể từ ngày xác lập việc ủy quyền.