Hành vi ngoại tình có vi phạm pháp luật hay không?

Quỳnh Trang, Thứ Ba, 25/06/2024 - 11:14
Quan hệ ngoại tình, ăn bánh trả tiền, những cụm từ này không còn xa lạ với xã hội ngày nay. Đằng sau những câu chuyện này là hàng ngàn gia đình tan vỡ, hàng ngàn con tim tan nát vì những vết thương khó lành từ sự phản bội. Mỗi ngày, tại các tòa án, hàng ngàn đơn xin ly hôn được đệ trình, và đáng chú ý là có không ít trong số đó được ghi nhận với lý do rõ ràng: vợ hoặc chồng đã có mối quan hệ ngoại tình. Vậy Hành vi ngoại tình có vi phạm pháp luật hay không?

Thực trạng về quan hệ ngoại tình hiện nay thế nào?

Hiện nay, không thể phủ nhận rằng sự bình đẳng giới đã đưa đến sự tự do và thoải mái trong việc lựa chọn tình cảm, sống theo cảm xúc của bản thân. Xã hội hiện đại với sự phát triển của công nghệ và sự mở rộng trong giao tiếp, con người có cơ hội gặp gỡ và tiếp xúc với nhiều đối tượng khác nhau, từ đó có nhiều lựa chọn chi phối cảm xúc của họ. Tuy nhiên, tự do quá mức trong tình cảm cũng đồng nghĩa với việc nhiều người đã bước chân vào cuộc sống hôn nhân nhưng lại cảm thấy mối quan hệ không còn mới mẻ, thú vị như trước, dẫn đến cảm giác nhàm chán và khao khát tìm kiếm những mối quan hệ mới, thường là bằng cách tham gia vào quan hệ ngoài luồng, hay ngoại tình.

Nghiên cứu của tạp chí AARP cho thấy rằng, có đến 46% nam giới thừa nhận từng lừa dối bạn đời trong quá khứ, trong khi con số này ở phụ nữ chỉ là 21%. Điều này cho thấy sự khác biệt về tần suất và cách tiếp cận trong việc ngoại tình giữa nam và nữ. Theo Khảo sát xã hội vào năm 2017 của Viện Nghiên cứu Quốc gia về Gia đình (IFS), 20% nam giới và 13% phụ nữ thừa nhận đã từng có quan hệ tình dục với người khác không phải là vợ/chồng của mình. Đáng chú ý là trong nhóm người từ 50 đến 69 tuổi, tỷ lệ nam giới ngoại tình cao hơn phụ nữ, lần lượt là 24% so với 16%. Ở độ tuổi 70 đến 79, con số này tiếp tục tăng lên 26% ở nam giới, trong khi chỉ còn 13% ở nữ giới.

Hành vi ngoại tình có vi phạm pháp luật hay không?

Thực tế này cho thấy rằng vấn đề ngoại tình không phải là hiếm gặp và đang diễn ra thường xuyên trong xã hội hiện đại. Các trang mạng xã hội thường xuyên đưa tin về các vụ việc đánh ghen, ngoại tình, điều này phản ánh sự phức tạp và đa dạng trong các mối quan hệ tình cảm ngày nay. Sự mở rộng của không gian giao tiếp và sự tự do cá nhân đồng thời là cơ hội và thách thức đối với sự ổn định và bền vững của các mối quan hệ hôn nhân trong xã hội hiện đại.

Tìm hiểu thêm: Mẫu thỏa thuận chia tài sản khi ly hôn

Hành vi ngoại tình có vi phạm pháp luật?

Ngoại tình không phải lúc nào cũng là lựa chọn cá nhân, mà thường mang theo nhiều yếu tố xã hội, tâm lý, và tình cảm phức tạp. Nó là một trong những hiện tượng phản ánh sự thay đổi của giá trị con người trong thế giới hiện đại, nơi mà sự cá nhân hóa và nhu cầu thoả mãn cá nhân thường đôi khi vượt quá khả năng kiểm soát và ảnh hưởng đến sự ổn định của cả xã hội. Vậy Hành vi ngoại tình có vi phạm pháp luật?

Theo Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, vi phạm chế độ một vợ một chồng được xác định rõ ràng và nghiêm túc. Theo quy định này, nếu một người đã có vợ hoặc chồng mà tiếp tục kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác, hoặc nếu người chưa có vợ chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ đã có vợ hoặc chồng, sẽ bị xử phạt. Các hình phạt có thể áp dụng bao gồm cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ từ 03 tháng đến 01 năm, hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm, tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể.

Ngoài ra, hành vi ngoại tình cũng được coi là vi phạm chế độ một vợ một chồng theo Luật Hôn nhân và Gia đình. Điều này được quy định tại Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, nơi ngoại tình được liệt kê là một trong những hành vi cấm.

Quy định trên rõ ràng thể hiện rằng, ngoại tình không chỉ là một vấn đề đạo đức mà còn là hành vi pháp lý bị cấm và có thể bị xử lý theo pháp luật. Hành vi này không chỉ ảnh hưởng đến mối quan hệ hôn nhân của các bên mà còn có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng như ly hôn hoặc các vấn đề pháp lý khác như hủy kết hôn. Do đó, sự cấm đoán về ngoại tình không chỉ tồn tại trong lĩnh vực đạo đức mà còn là một phần quan trọng của hệ thống pháp luật để bảo vệ sự ổn định và công bằng trong các mối quan hệ hôn nhân và gia đình.

Hành vi ngoại tình có vi phạm pháp luật hay không?

Quan hệ ngoại tình, mặc dù không đạt đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng vẫn có thể bị xử phạt hành chính theo quy định của Nghị định 82/2020/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Theo Điều 59 của Nghị định này, người vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng có thể bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng trong các trường hợp sau đây:

Thứ nhất, đối với người đang có vợ hoặc chồng nhưng lại kết hôn với người khác, hoặc người chưa có vợ hoặc chồng nhưng kết hôn với người mà biết rõ là đang có vợ hoặc chồng.

Thứ hai, đối với người đang có vợ hoặc chồng nhưng chung sống như vợ chồng với người khác.

Thứ ba, đối với người chưa có vợ hoặc chồng nhưng lại chung sống như vợ chồng với người mà biết rõ là đang có vợ hoặc chồng.

Điều này thể hiện rằng, dưới góc nhìn pháp lý, ngoại tình không chỉ là một vấn đề đạo đức mà còn là hành vi vi phạm pháp luật mà người vi phạm có thể bị xử lý và phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Quy định này nhấn mạnh vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ chế độ hôn nhân một vợ một chồng và xử lý các hành vi vi phạm này để duy trì ổn định trong xã hội và gia đình.

Bài viết liên quan:

Câu hỏi thường gặp

Hồ sơ ly hôn khi chồng ngoại tình gồm những gì?

Đơn xin ly hôn;
Giấy đăng ký kết hôn (Bản chính);
Hộ khẩu (Bản sao);
Bản sao có chứng thực Chứng minh nhân dân/ Căn cước công dân của vợ và chồng;
Bản sao chứng thực giấy khai sinh của con nếu có con chung;
Các giấy tờ chứng minh về tài sản và quyền nuôi con

Nộp hồ sơ ly hôn khi vợ/chồng ngoại tình ở đâu?

Sau khi chuẩn bị đẩy đủ hồ sơ, nộp hồ sơ tại Tòa án nhân dân quận/ huyện nơi bị đơn, tức là vợ hoặc chồng có quan hệ ngoại tình cư trú, làm việc theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ, trường hợp đơn phương ly hôn.

5/5 - (1 bình chọn)