Quyền bảo vệ giống cây trồng có thể kéo dài bao lâu?
Bảo hộ giống cây trồng là một chính sách mang tính chiến lược và quan trọng trong việc phát triển ngành nông nghiệp, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các tổ chức, cá nhân có công trong việc chọn tạo hoặc sở hữu giống cây trồng mới tại Việt Nam. Đây không chỉ là một biện pháp bảo vệ quyền lợi sở hữu trí tuệ mà còn là động lực thúc đẩy sự đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực nông nghiệp.
Theo quy định tại Điều 169 của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, đã được sửa đổi, bổ sung bởi điểm k khoản 82 Điều 1 của Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung năm 2022, Bằng bảo hộ giống cây trồng có hiệu lực trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Thời gian hiệu lực của bằng bảo hộ giống cây trồng phụ thuộc vào loại giống cây trồng cụ thể. Cụ thể, đối với giống cây thân gỗ và cây leo thân gỗ, Bằng bảo hộ có hiệu lực từ ngày cấp và kéo dài đến hết hai mươi lăm năm. Đối với các giống cây trồng khác, thời gian bảo vệ sẽ kéo dài đến hết hai mươi năm kể từ ngày cấp bằng. Tuy nhiên, quyền sở hữu giống cây trồng có thể bị đình chỉ hoặc huỷ bỏ hiệu lực trong trường hợp có vi phạm theo các quy định tại Điều 170 và Điều 171 của Luật Sở hữu trí tuệ. Như vậy, thời gian bảo vệ giống cây trồng có sự khác biệt tùy thuộc vào loại giống cây, và quyền bảo vệ có thể chấm dứt trước thời hạn nếu không đáp ứng được các yêu cầu về bảo vệ giống cây theo pháp luật.
Trường hợp bắt buộc phải chuyển giao quyền sử dụng giống cây trồng được bảo hộ
Mục tiêu chính của bảo hộ giống cây trồng không chỉ là bảo vệ quyền lợi của người sáng tạo, mà còn góp phần khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân trong mọi thành phần kinh tế tham gia vào việc nghiên cứu, chọn tạo và sử dụng giống cây trồng mới. Chính sách này giúp nâng cao chất lượng và năng suất cây trồng, đồng thời thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp Việt Nam. Pháp luật cũng có quy định rất chi tiết về những trường hợp bắt buộc phải chuyển giao quyền sử dụng giống cây trồng được bảo hộ
Theo quy định tại Điều 21 của Nghị định 79/2023/NĐ-CP, có ba trường hợp bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng giống cây trồng được bảo hộ. Cụ thể, những trường hợp này bao gồm:
Thứ nhất, giống cây trồng được sử dụng với mục đích công cộng, phi thương mại, nhằm phục vụ cho các nhu cầu quan trọng như quốc phòng, an ninh, an ninh lương thực, và dinh dưỡng cho nhân dân. Ngoài ra, giống cây trồng cũng có thể được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu cấp thiết trong xã hội như ứng phó với thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh hoặc ô nhiễm môi trường trên diện rộng. Trong trường hợp này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ có trách nhiệm công khai thông báo về nhu cầu sử dụng giống, bao gồm thông tin về tên giống cây trồng, mục đích sử dụng, lượng giống cần thiết, phạm vi, thời gian chuyển giao và thời hạn đăng ký hồ sơ để các tổ chức, cá nhân có nhu cầu có thể đăng ký sử dụng giống cây trồng.
Thứ hai, trường hợp người có nhu cầu và năng lực sử dụng giống cây trồng không thể đạt được thỏa thuận với chủ sở hữu quyền sử dụng giống về việc ký kết hợp đồng sử dụng giống, dù đã cố gắng thương lượng trong vòng 12 tháng (trừ các trường hợp bất khả kháng). Trong trường hợp này, mặc dù đã có nỗ lực thương lượng về mức giá và các điều kiện thương mại thỏa đáng, nhưng vẫn không đi đến thỏa thuận, thì quyền sử dụng giống cây trồng sẽ buộc phải chuyển giao.
Thứ ba, người sở hữu quyền sử dụng giống cây trồng bị coi là thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh trái phép theo quy định của pháp luật về cạnh tranh. Những hành vi này có thể bao gồm việc lạm dụng quyền sở hữu giống để gây cản trở sự cạnh tranh trên thị trường, từ đó có thể dẫn đến việc yêu cầu chuyển giao quyền sử dụng giống cây trồng.
Như vậy, Nghị định 79/2023/NĐ-CP quy định rõ ràng ba trường hợp cụ thể khi quyền sử dụng giống cây trồng được bảo hộ phải được chuyển giao bắt buộc, nhằm đảm bảo quyền lợi công cộng, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, và đáp ứng các nhu cầu cấp bách trong xã hội.
Tìm hiểu thêm: Tại sao phải bảo hộ nhãn hiệu độc quyền
Mức phạt tiền sử dụng Bằng bảo hộ giống cây trồng đã hết hiệu lực
Các giống cây trồng mới được bảo hộ có thể mang lại nhiều lợi ích vượt trội, chẳng hạn như khả năng chống chịu sâu bệnh, năng suất cao hơn, chất lượng tốt hơn và khả năng thích ứng tốt hơn với điều kiện khí hậu thay đổi. Những ưu điểm này không chỉ giúp nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp mà còn giảm thiểu rủi ro do thiên tai, dịch bệnh, từ đó giúp ngành nông nghiệp Việt Nam ổn định và phát triển mạnh mẽ hơn trong tương lai. Mức phạt tiền sử dụng Bằng bảo hộ giống cây trồng đã hết hiệu lực hiện nay như sau:
Theo quy định tại Điều 18 của Nghị định 31/2023/NĐ-CP, các hành vi vi phạm nghĩa vụ của chủ Bằng bảo hộ giống cây trồng và tác giả giống cây trồng sẽ bị xử phạt hành chính với mức phạt tiền và các biện pháp khắc phục hậu quả nghiêm ngặt. Cụ thể, Điều này quy định một số hành vi vi phạm chủ yếu của chủ Bằng bảo hộ giống cây trồng và tác giả giống cây trồng, bao gồm:
Khoản 1 quy định mức phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với các hành vi vi phạm như: Chủ Bằng bảo hộ giống cây trồng không thực hiện việc chuyển giao quyền sử dụng giống cây trồng khi có quyết định bắt buộc chuyển giao từ cơ quan có thẩm quyền; không trả thù lao cho tác giả giống cây trồng theo quy định; không đảm bảo điều kiện về tính khác biệt, tính đồng nhất, tính ổn định của giống cây trồng khi tiếp tục khai thác, sử dụng vật liệu nhân giống; và tác giả giống cây trồng không thực hiện nghĩa vụ trong việc giúp chủ Bằng bảo hộ duy trì vật liệu nhân giống của giống cây trồng đã được cấp Bằng bảo hộ. Đây là những hành vi vi phạm nghiêm trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan và sự phát triển bền vững của giống cây trồng.
Khoản 2 quy định mức phạt từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng Bằng bảo hộ giống cây trồng đã hết hiệu lực, bị đình chỉ hoặc bị hủy bỏ hiệu lực để thực hiện quyền đối với giống cây trồng. Việc sử dụng Bằng bảo hộ hết hiệu lực hoặc bị đình chỉ, hủy bỏ là hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và ảnh hưởng đến tính minh bạch, công bằng trong việc khai thác giống cây trồng.
Khoản 3 quy định các biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm, bao gồm:
- Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được từ hành vi vi phạm quy định tại điểm c khoản 1 và khoản 2 của Điều này. Đây là một biện pháp nhằm đảm bảo rằng các lợi ích thu được từ hành vi vi phạm sẽ bị thu hồi để tránh việc lợi dụng vi phạm pháp luật.
- Buộc nộp lại Bằng bảo hộ giống cây trồng cho cơ quan, người có thẩm quyền đã cấp đối với hành vi không đáp ứng các điều kiện bảo vệ giống cây trồng, gây ảnh hưởng đến chất lượng giống cây trồng và quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.
Những quy định trên của Nghị định 31/2023/NĐ-CP nhằm tăng cường quản lý và bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu giống cây trồng, tác giả giống cây trồng, đồng thời ngăn chặn các hành vi lợi dụng, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực giống cây trồng, đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp và bảo vệ quyền lợi công cộng.
Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 3 Điều 5 của Nghị định 31/2023/NĐ-CP, mức phạt tiền được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, cụ thể là đối với các hành vi liên quan đến giống cây trồng, có sự phân biệt rõ ràng giữa cá nhân và tổ chức vi phạm. Cụ thể, mức phạt tiền quy định tại chương II và chương III của Nghị định này áp dụng đối với cá nhân vi phạm. Đặc biệt, đối với tổ chức, mức phạt sẽ gấp đôi mức phạt áp dụng đối với cá nhân khi cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính. Điều này nhằm tăng tính răn đe đối với tổ chức, đồng thời khuyến khích các tổ chức thực hiện đúng nghĩa vụ pháp lý và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.
Một trong những hành vi vi phạm nghiêm trọng được quy định tại Nghị định 31/2023/NĐ-CP là việc sử dụng Bằng bảo hộ giống cây trồng đã hết hiệu lực để thực hiện quyền đối với giống cây trồng. Đây là hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, gây ảnh hưởng đến sự công bằng trong việc khai thác giống cây trồng. Đối với hành vi này, mức phạt tiền áp dụng từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng. Đây là một mức phạt khá nghiêm khắc nhằm ngăn chặn việc lợi dụng giống cây trồng đã hết hiệu lực để thực hiện các quyền lợi không hợp pháp.
Bên cạnh đó, Nghị định cũng quy định các biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi này, bao gồm yêu cầu buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được từ hành vi sử dụng Bằng bảo hộ giống cây trồng hết hiệu lực. Điều này nhằm đảm bảo rằng các lợi ích thu được từ hành vi vi phạm sẽ bị thu hồi và trả lại cho các bên bị thiệt hại, đồng thời góp phần duy trì tính công bằng và minh bạch trong việc sử dụng giống cây trồng và bảo vệ quyền lợi của các tổ chức, cá nhân sở hữu giống cây trồng hợp pháp.
Với các quy định trên, Nghị định 31/2023/NĐ-CP đã thể hiện sự quyết tâm trong việc bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan, đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp và sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực giống cây trồng, đồng thời ngăn chặn các hành vi lợi dụng, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Mời bạn xem thêm:
- Tiền phúng viếng có phải là di sản thừa kế không?
- Thủ tục miễn thuế thu nhập cá nhân khi có thu nhập từ chuyển nhượng, thừa kế, quà tặng là bất động sản
- Thủ tục lập di chúc thừa kế hợp pháp năm 2024
Câu hỏi thường gặp:
Căn cứ khoản 5 Điều 2 Luật trồng trọt 2018 định nghĩa về giống cây trồng như sau:
“5. Giống cây trồng là một quần thể cây trồng có thể phân biệt được với quần thể cây trồng khác thông qua sự biểu hiện của ít nhất là một đặc tính và di truyền được cho đời sau; đồng nhất về hình thái, ổn định qua các chu kỳ nhân giống; có giá trị canh tác, giá trị sử dụng; bao gồm giống cây nông nghiệp, giống cây dược liệu, giống cây cảnh và giống nấm ăn.”
Theo quy định Điều 163 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, được sửa đổi bởi khoản 20 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2009 và được bổ sung bởi điểm d khoản 65 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 (Có hiệu lực ngày 01/01/2023) quy định về tên của giống cây trồng như sau: Tên của giống cây trồng được coi là phù hợp nếu tên đó có khả năng dễ dàng phân biệt được với tên của các giống cây trồng khác được biết đến rộng rãi trong cùng một loài hoặc loài tương tự.