Tàng trữ súng hơi bị xử lý như thế nào?

Quỳnh Trang, Thứ Tư, 13/03/2024 - 14:00
Súng hơi, một loại vũ khí nhẹ nhàng nhưng không kém phần nguy hiểm, đã từ lâu trở thành công cụ không thể thiếu trong việc săn bắn thú rừng tại Việt Nam. Tính đến năm 2017, theo quy định của Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ, súng hơi được xem xét là một trong những loại vũ khí nằm trong danh sách súng săn, nhưng không hề giảm đi tính nguy hiểm của nó. Vậy khi Tàng trữ súng hơi bị xử lý như thế nào?

Súng hơi có phải là công cụ hỗ trợ hay không?

Tàng trữ súng hơi bị xử lý như thế nào?

Khác với các loại súng lớn, súng hơi thường được chế tạo thủ công hoặc công nghiệp, đôi khi mang đậm nét cá nhân hóa của từng người sử dụng. Những khẩu súng này thường có thiết kế đơn giản nhưng đầy chất công nghệ, với khả năng bắn xa và chính xác, đảm bảo hiệu suất trong việc săn bắn.

Theo quy định tại khoản 11 Điều 3 của Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ 2017, công cụ hỗ trợ được định nghĩa là các phương tiện, động vật nghiệp vụ được sử dụng để thi hành công vụ, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ, nhằm hạn chế, ngăn chặn người có hành vi vi phạm pháp luật chống trả, trốn chạy; bảo vệ người thi hành công vụ, người thực hiện nhiệm vụ bảo vệ hoặc báo hiệu khẩn cấp. Các loại công cụ hỗ trợ bao gồm súng bắn điện, hơi ngạt, chất độc, chất gây mê, từ trường, laze, lưới; súng phóng dây mồi; súng bắn đạn nhựa, nổ, cao su, hơi cay, pháo hiệu, hiệu lệnh, đánh dấu và đạn sử dụng cho các loại súng này; phương tiện xịt hơi cay, hơi ngạt, chất độc, chất gây mê, chất gây ngứa; lựu đạn khói, lựu đạn cay, quả nổ; dùi cui điện, dùi cui cao su, dùi cui kim loại; khóa số tám, bàn chông, dây đinh gai; áo giáp; găng tay điện, găng tay bắt dao; lá chắn, mũ chống đạn; thiết bị áp chế bằng âm thanh; động vật nghiệp vụ là động vật được huấn luyện để sử dụng cho yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; và các công cụ hỗ trợ có tính năng, tác dụng tương tự như công cụ hỗ trợ quy định tại các điểm trên.

Theo quy định nêu trên, súng hơi được xác định là một loại công cụ hỗ trợ. Điều này đồng nghĩa với việc trang bị và sử dụng súng hơi phải được sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc này nhấn mạnh sự quan trọng của việc kiểm soát và quản lý việc sử dụng súng hơi, nhằm đảm bảo an toàn và trật tự xã hội, cũng như ngăn chặn việc sử dụng sai mục đích hoặc vi phạm pháp luật.

>>>Tham khảo thêm: Thủ tục thành lập quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo

Tàng trữ súng hơi bị xử lý như the nào

Không thể phủ nhận rằng súng hơi mang theo rất nhiều rủi ro. Với khả năng gây sát thương không kém bất kỳ loại vũ khí nào khác, súng hơi có thể gây nguy hại cho tính mạng và sức khỏe của con người. Không chỉ vậy, khi sử dụng không cẩn thận, súng hơi cũng có thể gây phá hủy kết cấu vật chất, gây thiệt hại lớn đến môi trường sống xung quanh.

Tàng trữ súng hơi bị xử lý như thế nào?

Về xử lý vi phạm hành chính

Căn cứ vào quy định tại điểm h của khoản 3 Điều 11 của Nghị định 144/2021/NĐ-CP, việc sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ mà không có giấy phép sẽ bị xem là một hành vi vi phạm pháp luật về quản lý sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, và các công cụ hỗ trợ liên quan. Hành vi này có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

Trong khi đó, theo quy định tại khoản 2 của Điều 4 trong cùng Nghị định, mức phạt tiền tối đa được áp dụng cho cá nhân vi phạm hành chính là mức phạt quy định trong Chương II của Nghị định này. Tuy nhiên, đối với tổ chức có cùng hành vi vi phạm, mức phạt tiền sẽ tăng gấp đôi so với mức phạt tiền áp dụng cho cá nhân.

Do đó, theo quy định này, việc sử dụng vũ khí trái phép không chỉ đe dọa đến trật tự và an ninh mà còn đồng nghĩa với việc phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và sẽ phải chịu mức phạt tiền cao nếu bị xác định là vi phạm. Sự nghiêm túc trong xử lý vi phạm này không chỉ là biện pháp để giữ gìn trật tự, an ninh mà còn là biện pháp đảm bảo an toàn cho cộng đồng và môi trường xã hội.

Về truy cứu trách nhiệm hình sự

Căn cứ vào quy định của Điều 306 Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 108 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017, về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao hoặc công cụ hỗ trợ, các hành vi vi phạm được xác định cụ thể và áp đặt các hình phạt tương ứng.

Theo quy định, người vi phạm có thể phải chịu án phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm trong trường hợp chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao hoặc công cụ hỗ trợ mà không có giấy phép và đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Đối với các trường hợp phạm tội nghiêm trọng hơn, hình phạt có thể lên đến 5 năm tù hoặc thậm chí 7 năm tù nếu tội phạm gây ra hậu quả nghiêm trọng như làm chết người, gây thương tích nặng hoặc gây thiệt hại về tài sản lớn.

Ngoài hình phạt tù, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.

Như vậy, quy định pháp luật rõ ràng và nghiêm ngặt đối với việc sử dụng súng hơi trái phép, đảm bảo tính công bằng và an toàn cho cộng đồng. Người dân cần tuân thủ và hạn chế việc sử dụng các loại vũ khí một cách hợp pháp để tránh những hậu quả nghiêm trọng và tránh xa khỏi những rủi ro pháp lý.

Mời bạn xem thêm:

Câu hỏi thường gặp

Ai được sử dụng vũ khí?

Đối với vũ khí quân dụng: Quân đội nhân dân, dân quân tự vệ, cảnh sát biển, công an nhân dân…
Đối với vũ khí thể thao: Quân đội nhân dân, dân quân tự vệ; công an nhân dân…
Đối với vũ khí thô sơ: Quân đội nhân dân, dân quân tự vệ, cảnh sát biển, công an nhân dân…

Sử dụng súng hơi tự chế bị xử lý như thế nào?

Việc sử dụng súng hơi tự chế là vi phạm điều cấm của pháp luật, do đó sẽ bị xử lý tùy theo mức độ của hành vi.
Về hành chính, việc chế tạo và sử dụng súng hơi có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng theo quy định tại Điểm d Khoản 4 Điều 11 Nghị định 144/2021/NĐ-CP.
Về hình sự, nếu việc sử dụng súng hơi tự chế đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm theo quy định tại Khoản 1 Điều 306 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Ngoài ra, nếu việc phạm tội này có tổ chức thì mức phạt có thể nâng lên 01 đến 05 năm tù theo Khoản 2 Điều này.

5/5 - (1 bình chọn)