Người bị phạt tù oan ai chịu trách nhiệm bồi thường?
Theo Điều 18 của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, Nhà nước chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị phạt tù oan trong các trường hợp sau đây:
- Khi người đó bị giữ trong trường hợp khẩn cấp mà không có căn cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
- Khi người đó bị bắt, tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự quyết định trả tự do, hủy bỏ quyết định tạm giữ, không phê chuẩn lệnh bắt, hoặc gia hạn tạm giữ vì không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
- Khi người đó bị tạm giam mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm, hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không có chứng cứ cho thấy người đó đã thực hiện tội phạm.
- Khi người đó đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành án tù có thời hạn, án tù chung thân, án tử hình, mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm.
- Khi người đó bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án mà không bị tạm giữ, tạm giam, thi hành án tù mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm, hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không có chứng cứ cho thấy người đó đã thực hiện tội phạm.
- Khi người đó bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án, đã chấp hành hình phạt tù mà sau đó có bản án, quy định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội và hình phạt chung sau khi tổng hợp hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành.
- Khi người đó bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án và bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm tội bị kết án tử hình và hình phạt chung sau khi tổng hợp hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam vượt quá so với mức hình phạt chung của những tội mà người đó phải chấp hành.
- Khi người đó bị xét xử bằng nhiều bản án, Tòa án đã tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đó mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội và hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành.
- Khi pháp nhân thương mại bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định không có sự việc phạm tội hoặc hành vi của pháp nhân không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không có chứng cứ cho thấy pháp nhân đã thực hiện tội phạm, và pháp nhân đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
- Khi cá nhân, tổ chức có tài sản bị thiệt hại do việc thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu, xử lý, có tài khoản bị phong tỏa hoặc cá nhân, tổ chức khác có liên quan đến các trường hợp quy định tại các khoản trên bị thiệt hại.
Do đó, trong các tình huống trên, người bị phạt tù oan sẽ được Nhà nước bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật để khôi phục công bằng và đền bù thiệt hại đã gánh chịu.
Bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người bị phạt tù oan như thế nào?
Theo Điều 27 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017, việc bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người bị phạt tù oan được quy định như sau:
- Đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp mà không có căn cứ theo quy định, được bồi thường thiệt hại về tinh thần là 02 ngày lương cơ sở cho mỗi ngày bị giữ.
- Đối với người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù mà sau đó được xác định là không có sự việc phạm tội, được bồi thường thiệt hại về tinh thần là 05 ngày lương cơ sở cho mỗi ngày bị bắt, tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù.
- Đối với người bị thiệt hại không bị bắt, tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt không phải là tù, được bồi thường thiệt hại về tinh thần là 02 ngày lương cơ sở cho mỗi ngày không bị bắt, tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt, trừ những trường hợp đặc biệt.
- Đối với người bị chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, phạt tù cho hưởng án treo, được bồi thường thiệt hại về tinh thần là 03 ngày lương cơ sở cho mỗi ngày chấp hành hình phạt.
- Đối với người đã chấp hành xong hình phạt theo bản án, sau đó được xác định là không có sự việc phạm tội, được bồi thường thiệt hại về tinh thần là 02 ngày lương cơ sở cho mỗi ngày chưa có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự.
Ví dụ, nếu công dân bị kết án tù oan và đang chấp hành án tù, khi được xác định là không có sự việc phạm tội, mỗi ngày chấp hành hình phạt tù sẽ được bồi thường 05 ngày lương cơ sở. Hiện tại, mức lương cơ sở được sử dụng là 1.490.000 đồng/tháng.
Xem thêm: Mẫu biên bản thỏa thuận bồi thường thiệt hại
Thời gian để bồi thường về tinh thần cho người bị phạt tù oan được xác định như thế nào?
Theo Điều 11 Nghị định 68/2018/NĐ-CP, thời gian để xác định bồi thường về tinh thần cho người bị phạt tù oan được quy định như sau:
Đối với người bị thiệt hại bắt, tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù theo quy định tại điểm b Khoản 3 Điều 27 của Luật, thời gian được tính từ ngày người bị thiệt hại bắt, tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù cho đến ngày chấp hành xong biện pháp ngăn chặn hoặc được trả tự do, hoặc đến ngày chấp hành xong hình phạt tù.
Đối với người bị thiệt hại không bắt, tạm giữ, tạm giam hoặc chấp hành hình phạt không phải là hình phạt tù theo quy định tại điểm c Khoản 3 Điều 27 của Luật, thời gian được tính từ ngày người bị thiệt hại bắt đầu bị khởi tố hoặc chấp hành hình phạt cho đến ngày có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường.
Đối với người bị thiệt hại chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, phạt tù cho hưởng án treo theo quy định tại điểm d Khoản 3 Điều 27 của Luật, thời gian được tính từ ngày người bị thiệt hại chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, phạt tù cho hưởng án treo cho đến ngày chấp hành xong hình phạt.
Đối với người bị thiệt hại đã chấp hành xong hình phạt theo bản án, quyết định của Tòa án mà sau đó có bản án, quy định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định thuộc trường hợp được bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự quy định tại điểm đ Khoản 3 Điều 27 của Luật, thời gian được tính từ ngày người bị thiệt hại đã chấp hành xong hình phạt cho đến ngày có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường.
Vì vậy, đối với người bị kết án tù oan đang chấp hành án tù, thời gian để xác định bồi thường về tinh thần là khoảng thời gian từ ngày bắt đầu chấp hành hình phạt tù đến ngày chấp hành xong hình phạt tù.
Mời bạn xem thêm:
- Quy định về mức bồi thường khi thu hồi đất như thế nào?
- Mẫu biên bản thỏa thuận bồi thường thiệt hại cập nhật mới 2024
- Hợp đồng đặt cọc quá hạn có phải bồi thường tiền cọc hay không?
Câu hỏi thường gặp:
Những người bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước thì sẽ được yêu cầu Nhà nước bồi thường thiệt hại. Theo đó, người ngồi tù oan sai được yêu cầu Nhà nước bồi thường thiệt hại.
Dù người giải quyết bồi thường là người khác nhưng người thi hành công vụ gây thiệt hại vẫn phải hoàn trả cho ngân sách nhà nước một khoản tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quyết định của cơ quan trực tiếp quản lý họ.
❓ Câu hỏi: | Người bị phạt tù oan ai chịu trách nhiệm bồi thường? |
📰 Chủ đề: | Luật |
⏱ Thời gian đăng: | 09/07/2024 |
⏰ Ngày Cập nhật: | 09/07/2024 |