Mức xử phạt khi buôn bán hàng rong lấn chiếm lòng lề đường
Buôn bán hàng rong là một hình thức hoạt động thương mại không chính thức, diễn ra ngoài các cửa hàng, cửa hiệu chính thức, và thường xảy ra trên vỉa hè, lòng đường, hoặc những khu vực công cộng khác mà không được cấp phép hoặc không có sự đồng ý của cơ quan chức năng.
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 12 của Nghị định 100/2019/NĐ-CP, hành vi bán hàng rong trên lòng đường đô thị hoặc trên vỉa hè của các tuyến phố có quy định cấm bán hàng có thể bị xử phạt nghiêm khắc. Cụ thể, cá nhân thực hiện hành vi này có thể bị phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng, trong khi tổ chức có thể bị phạt từ 200.000 đồng đến 400.000 đồng. Đây là mức xử phạt áp dụng cho việc bán hàng rong hoặc bán hàng hóa nhỏ lẻ khác trên các khu vực bị cấm, trừ một số trường hợp vi phạm khác đã được quy định tại điểm c khoản 2, điểm b khoản 5, và điểm e khoản 6 của Điều này. Vì vậy, những hành vi bán hàng rong lấn chiếm vỉa hè đường bộ không chỉ gây mất trật tự đô thị mà còn có thể bị xử phạt theo mức quy định nêu trên.
Thẩm quyền xử phạt hành vi bán hàng rong lấn chiếm vỉa hè đường bộ?
Những người tham gia vào hoạt động buôn bán hàng rong thường không có địa điểm cố định, mà thay vào đó, họ sử dụng các phương tiện di động như xe đẩy, thùng hàng, hoặc các loại túi để bày bán hàng hóa và dịch vụ. Họ có thể cung cấp một loạt các mặt hàng, từ thực phẩm tươi sống, đồ ăn vặt đến các sản phẩm tiêu dùng, và thường xuyên di chuyển để tiếp cận và phục vụ khách hàng.
Theo quy định tại Điều 74 của Nghị định 100/2019/NĐ-CP, được sửa đổi và bổ sung bởi điểm d khoản 26 Điều 2 của Nghị định 123/2021/NĐ-CP, các cơ quan và cá nhân có thẩm quyền xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt bao gồm một số đối tượng cụ thể. Đầu tiên, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp có quyền xử phạt đối với các hành vi vi phạm quy định trong phạm vi quản lý của địa phương mình.
Thứ hai, Cảnh sát giao thông có nhiệm vụ thực hiện việc xử phạt các vi phạm liên quan đến giao thông.
Thứ ba, các lực lượng như Cảnh sát trật tự, Cảnh sát phản ứng nhanh, Cảnh sát cơ động, và Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội cũng được trao quyền xử phạt trong lĩnh vực này.
Thứ tư, Trưởng Công an cấp xã, Trưởng đồn Công an, và Trưởng trạm Công an cửa khẩu hoặc khu chế xuất đều có thẩm quyền xử lý các vi phạm.
Cuối cùng, Thanh tra giao thông vận tải và những người được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành đường bộ cũng có quyền thực hiện xử phạt. Do đó, nếu gặp phải hành vi bán hàng rong trên lòng đường đô thị hoặc vỉa hè các tuyến phố có quy định cấm bán hàng, các cá nhân hoặc cơ quan có thể trình báo hoặc tự mình thực hiện xử phạt nếu là một trong những người có thẩm quyền được nêu trên.
Tìm hiểu thêm: Hồ sơ cấp giấy phép kinh doanh hoá chất
Thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính đối với hành vi bán hàng rong lấn chiếm vỉa hè đường bộ
Mặc dù hoạt động buôn bán hàng rong đáp ứng nhu cầu nhanh chóng của người tiêu dùng và tạo ra cơ hội sinh kế cho nhiều người, nhưng nó cũng mang đến những vấn đề đáng lo ngại về trật tự đô thị và vệ sinh môi trường. Sự hiện diện của hàng rong có thể làm mất mỹ quan đô thị, gây tắc nghẽn giao thông và ô nhiễm môi trường, đồng thời còn tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh với các cửa hàng chính thức, vốn đã tuân thủ đầy đủ các quy định về kinh doanh và vệ sinh. Thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính đối với hành vi bán hàng rong lấn chiếm vỉa hè đường bộ như thế nào?
Căn cứ vào Điều 79 của Nghị định 100/2019/NĐ-CP, được sửa đổi và bổ sung bởi điểm c khoản 33 Điều 2 của Nghị định 123/2021/NĐ-CP, thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ được phân định rõ ràng như sau. Trước tiên, các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, theo các Điều 75, 76 và 77 của Nghị định này, có quyền lập biên bản đối với các hành vi vi phạm. Tiếp theo, công chức và viên chức được giao nhiệm vụ tuần kiểm có quyền lập biên bản đối với các hành vi xâm phạm kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, lấn chiếm, hoặc sử dụng trái phép đất thuộc đường bộ và hành lang an toàn giao thông. Công an viên cũng có thẩm quyền lập biên bản đối với các vi phạm xảy ra trong phạm vi quản lý của địa phương. Thêm vào đó, công chức thuộc Thanh tra Sở Giao thông vận tải, khi đang thi hành công vụ, có quyền lập biên bản đối với các hành vi vi phạm xảy ra trong phạm vi địa bàn quản lý của mình. Cũng cần lưu ý rằng công chức, viên chức thuộc Cảng vụ hàng hải, Cảng vụ hàng không, và Cảng vụ đường thủy nội địa, trong khi thực thi công vụ, có thẩm quyền lập biên bản đối với các hành vi vi phạm quy định theo điểm a khoản 1, điểm a khoản 3, và khoản 5 Điều 28 của Nghị định này, khi các vi phạm xảy ra trong phạm vi địa bàn quản lý của cảng vụ.
Trong lĩnh vực giao thông đường sắt, thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính bao gồm các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo các Điều 75, 76 và 77 của Nghị định. Ngoài ra, trưởng tàu có quyền lập biên bản đối với các hành vi vi phạm xảy ra trên tàu, và công an viên có thẩm quyền lập biên bản đối với các vi phạm xảy ra trong phạm vi quản lý của địa phương.
Vì vậy, đối với hành vi bán hàng rong lấn chiếm vỉa hè, thẩm quyền lập biên bản thuộc về các đối tượng được quy định trong khoản 1 nêu trên, bao gồm cả các chức danh, công chức, và viên chức liên quan đến việc tuần kiểm và xử lý vi phạm trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
Mời bạn xem thêm:
- Mẫu giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh năm 2024
- Mức phạt khi kinh doanh, bán hàng hết hạn (quá hạn) sử dụng
- Thủ tục thuê đất nông nghiệp phục vụ mục đích kinh doanh
Câu hỏi thường gặp
Căn cứ Điều 3 Nghị định 39/2007/NĐ-CP quy định kinh doanh lưu động được hiểu là các hoạt động thương mại không có địa điểm cố định.
Khoản 1 Điều 3 Nghị định 39/2007/NĐ-CP quy định các đối tượng nêu trên được xem là cá nhân hoạt động thương mại là cá nhân tự mình hàng ngày thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động được pháp luật cho phép về mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác nhưng không thuộc đối tượng phải đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật về đăng ký kinh doanh và không gọi là “thương nhân” theo quy định của Luật Thương mại.
Đồng thời, khoản 2 Điều 79 Nghị định 01/2021/NĐ-CP cũng quy định hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm muối và những người bán hàng rong, quà vặt, buôn chuyến, kinh doanh lưu động, kinh doanh thời vụ, làm dịch vụ có thu nhập thấp không phải đăng ký hộ kinh doanh, trừ trường hợp kinh doanh các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện.
Như vậy, căn cứ các quy định nêu trên, người kinh doanh, buôn bán hàng rong không thuộc đối tượng phải đăng ký kinh doanh.