Hiểu như thế nào là sống chung như vợ chồng?
“Sống chung như vợ chồng” là một thuật ngữ thường được sử dụng trong xã hội để chỉ tình trạng của những người nam nữ sống chung với nhau trong một mối quan hệ tình cảm, có sự gắn kết về mặt tinh thần và thể xác, nhưng lại không thực hiện việc đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về hôn nhân gia đình và pháp luật về hộ tịch. Trong mối quan hệ này, mặc dù các cặp đôi này sống chung như vợ chồng, chia sẻ quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm với nhau giống như một cặp vợ chồng hợp pháp, nhưng pháp luật lại không công nhận họ là vợ chồng chính thức. Điều này có thể dẫn đến những vấn đề pháp lý liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của các bên trong trường hợp có tranh chấp, ly hôn hay các vấn đề tài sản. Pháp luật Việt Nam hiện tại chưa có quy định cụ thể và đầy đủ để bảo vệ quyền lợi cho những người sống chung như vợ chồng, điều này tạo ra những khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến mối quan hệ này.
Sống chung như vợ chồng thì được chia thừa kế không?
Trong xã hội ngày nay, khái niệm “sống thử” hay “chung sống như vợ chồng” đã trở nên khá phổ biến, đặc biệt là trong giới trẻ, khi mà các cặp đôi quyết định sống chung mà không đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, nhiều người vẫn chưa hiểu rõ về các vấn đề pháp lý liên quan đến tình trạng này. Mặc dù hai người sống chung với nhau, chia sẻ cuộc sống và có những nghĩa vụ, trách nhiệm giống như một cặp vợ chồng hợp pháp, nhưng về mặt pháp lý, họ không được công nhận là vợ chồng chính thức nếu không có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều này dẫn đến việc họ không có các quyền lợi và nghĩa vụ mà một cặp vợ chồng hợp pháp được hưởng, chẳng hạn như quyền thừa kế tài sản của nhau. Trong trường hợp một người qua đời mà không có di chúc, người còn lại sẽ không được hưởng di sản theo quy định của pháp luật về thừa kế, vì họ không được coi là vợ chồng hợp pháp. Mối quan hệ này không mang tính ràng buộc về mặt pháp lý, do đó có thể gây ra những bất lợi khi có tranh chấp về tài sản, thừa kế hay các quyền lợi khác.
Trường hợp 1: Chung sống như vợ chồng trước ngày 03/01/1987
Căn cứ theo Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP, đối với các trường hợp quan hệ vợ chồng đã được xác lập trước ngày 03/01/1987, tức là trước khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 có hiệu lực, mà chưa thực hiện việc đăng ký kết hôn, nếu một bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn, thì Toà án vẫn có quyền thụ lý vụ án và áp dụng các quy định về ly hôn của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 để giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Điều này có nghĩa là, mặc dù chưa đăng ký kết hôn, nhưng nếu trước ngày 03/01/1987, hai người đã sống chung như vợ chồng thì họ vẫn được pháp luật công nhận là vợ chồng hợp pháp trong những trường hợp ly hôn.
Về vấn đề thừa kế trong trường hợp này, nếu một trong hai người vợ/chồng qua đời, người còn lại sẽ đương nhiên có quyền được hưởng phần di sản thừa kế theo Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015. Điều này đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người còn lại trong mối quan hệ này, mặc dù trước đây họ chưa thực hiện đăng ký kết hôn. Quy định này thể hiện sự công nhận và bảo vệ quyền lợi của những người sống chung như vợ chồng, tạo sự ổn định và công bằng trong các quan hệ tài sản và thừa kế.
Trường hợp 2: Chung sống như vợ chồng sau ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001
Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP cũng quy định rõ ràng đối với trường hợp nam và nữ đã chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001 (thời điểm Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 có hiệu lực), mà trong suốt thời gian này họ đáp ứng đủ các điều kiện để kết hôn nhưng vẫn chưa thực hiện việc đăng ký kết hôn và tiếp tục sống chung như vợ chồng. Theo quy định, để đảm bảo tính hợp pháp trong mối quan hệ, các cặp đôi này phải tiến hành đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước ngày 01/01/2003. Nếu sau thời gian này mà họ không đăng ký kết hôn, mối quan hệ của họ sẽ không được công nhận là vợ chồng theo pháp luật, dù họ vẫn tiếp tục chung sống với nhau như vợ chồng.
Do đó, sau ngày 01/01/2003, nếu những cặp đôi sống chung như vợ chồng từ trước nhưng không thực hiện đăng ký kết hôn, pháp luật sẽ không công nhận họ là vợ chồng hợp pháp. Điều này có tác động trực tiếp đến quyền lợi của các bên, đặc biệt là trong vấn đề thừa kế tài sản. Cụ thể, họ sẽ không được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật, vì theo quy định, chỉ có những người vợ chồng hợp pháp mới có quyền hưởng thừa kế di sản của nhau khi một trong hai người qua đời.
Xem thêm: Trẻ sơ sinh có quyền hưởng thừa kế không
Trường hợp 3: Chung sống như vợ chồng sau ngày 01/01/2001 đến nay
Việc nam nữ chung sống như vợ chồng sau ngày 01/01/2001 đã có những thay đổi rõ rệt theo các quy định của pháp luật hiện hành. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã xác định rằng kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật, bao gồm việc đáp ứng các điều kiện kết hôn và thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bên cạnh đó, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng quy định rõ rằng hôn nhân chỉ được coi là hợp pháp khi quan hệ giữa vợ và chồng được xác lập sau khi hai bên thực hiện việc kết hôn hợp pháp, tức là đã đăng ký kết hôn.
Để trở thành vợ chồng hợp pháp theo pháp luật, nam và nữ phải thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn, qua đó xác lập quan hệ vợ chồng chính thức theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Điều này có nghĩa là việc sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn sẽ không được công nhận là hôn nhân hợp pháp, và các quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến hôn nhân, bao gồm quyền thừa kế, sẽ không được pháp luật bảo vệ.
Vì thế, để được hưởng di sản thừa kế theo Điều 644 của Bộ luật Dân sự năm 2015, bắt buộc nam và nữ phải đăng ký kết hôn. Việc sống chung như vợ chồng mà không thực hiện đăng ký kết hôn sẽ không có giá trị pháp lý về mặt thừa kế. Điều này cũng đồng nghĩa với việc người còn lại trong mối quan hệ không có quyền hưởng di sản thừa kế nếu người kia qua đời mà không để lại di chúc hợp pháp.
Mời bạn xem thêm:
- Mức trợ cấp xã hội hàng tháng đối với trẻ em có cả cha và mẹ bị tuyên bố mất tích
- Mẫu hợp đồng cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội mới năm 2024
- Mức phạt khai gian hồ sơ để hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng năm 2024
Câu hỏi thường gặp:
– Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
– Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
– Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
– Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn.
Khi làm giấy đăng ký kết hôn, hai bên nam nữ đến UBND cấp huyện hoặc cấp xã, cụ thể:
– Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam thực hiện đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài, cụ thể:
+ Giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài;
+ Giữa công dân Việt Nam cư trú ở trong nước với công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài; giữa công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài với nhau;
+ Giữa công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài với công dân Việt Nam hoặc với người nước ngoài.
– Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của một trong hai bên nam, nữ thực hiện đăng ký kết hôn không có yếu tố nước ngoài.