Người nước ngoài mua dâm ở Việt Nam có bị trục xuất hay không?
Mua dâm là hành vi mà một cá nhân sử dụng tiền hoặc các lợi ích vật chất khác để trả cho người bán dâm nhằm nhận được sự giao cấu. Hành vi này không chỉ vi phạm các quy định pháp luật mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đạo đức xã hội và sức khỏe cộng đồng. Khi một người chi trả tiền hoặc các lợi ích khác để mua dâm, họ không chỉ tham gia vào một hoạt động phi pháp mà còn góp phần duy trì và phát triển tệ nạn mại dâm, gây ra nhiều hệ lụy xấu cho xã hội.
Sự mua dâm thường đi kèm với nhiều vấn đề khác nhau, bao gồm việc thúc đẩy hoạt động tội phạm liên quan đến mại dâm, như buôn bán người, cưỡng bức lao động, và các hình thức lạm dụng khác. Đồng thời, hành vi này cũng làm gia tăng nguy cơ lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của những người tham gia.
Căn cứ vào Điều 24 của Nghị định 144/2021/NĐ-CP, quy định về xử phạt hành chính đối với hành vi mua dâm được quy định như sau: Đối với hành vi mua dâm, người vi phạm sẽ bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng. Trong trường hợp người vi phạm mua dâm từ hai người trở lên cùng một lúc, mức phạt tiền sẽ tăng lên từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng.
Ngoài các hình thức xử phạt chính nêu trên, Nghị định cũng quy định các hình thức xử phạt bổ sung. Cụ thể, tang vật vi phạm hành chính liên quan đến các hành vi mua dâm sẽ bị tịch thu theo quy định. Điều này có nghĩa là ngoài việc phải nộp tiền phạt, người vi phạm còn phải chịu hình thức xử phạt bổ sung là tịch thu các tang vật liên quan đến hành vi vi phạm.
Tuy nhiên, theo quy định của Nghị định 144/2021/NĐ-CP, pháp luật hiện hành không quy định áp dụng hình thức xử phạt trục xuất đối với người nước ngoài có hành vi mua dâm. Điều này cho thấy rằng mặc dù có sự xử lý nghiêm khắc đối với hành vi mua dâm trong nước, nhưng đối với người nước ngoài, việc xử lý không bao gồm hình thức trục xuất, điều này có thể cần xem xét và điều chỉnh thêm trong các chính sách pháp luật tương lai để đảm bảo tính hiệu quả trong công tác phòng chống tệ nạn xã hội.
Xem ngay: Hành vi ngoại tình có vi phạm pháp luật hay không
Bán dâm cho người nước ngoài sẽ bị phạt thế nào?
Bán dâm là hành vi mà một cá nhân thực hiện giao cấu với người khác để đổi lấy tiền hoặc các lợi ích vật chất khác. Hành vi này không chỉ vi phạm các quy định pháp luật mà còn có những tác động tiêu cực sâu rộng đến đời sống xã hội và sức khỏe cá nhân. Khi một người tham gia vào hoạt động bán dâm, họ thường phải đối mặt với nhiều nguy cơ về sức khỏe, bao gồm việc dễ mắc phải các bệnh lây truyền qua đường tình dục và các vấn đề sức khỏe tâm lý do áp lực và sự kỳ thị xã hội gây ra.
Theo quy định tại Điều 25 của Nghị định 144/2021/NĐ-CP, các hành vi liên quan đến việc bán dâm được xử lý như sau: Đối với hành vi bán dâm, người vi phạm có thể bị xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng. Nếu người bán dâm cho hai người trở lên cùng một lúc, mức phạt sẽ được nâng lên từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng.
Ngoài các hình thức xử phạt chính, Nghị định cũng quy định các hình thức xử phạt bổ sung. Cụ thể, tang vật liên quan đến hành vi bán dâm sẽ bị tịch thu. Đối với người nước ngoài, nếu có hành vi bán dâm, họ còn có thể bị áp dụng hình thức trục xuất theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, người vi phạm cũng sẽ phải chịu biện pháp khắc phục hậu quả, cụ thể là buộc phải nộp lại số lợi bất hợp pháp thu được từ hành vi bán dâm.
Pháp luật hiện hành không phân biệt giữa việc bán dâm cho người nước ngoài hay người Việt Nam. Điều này có nghĩa rằng mức phạt và các hình thức xử lý đều được áp dụng đồng nhất đối với tất cả các trường hợp bán dâm, không phụ thuộc vào đối tượng khách hàng. Như vậy, người có hành vi bán dâm sẽ phải đối mặt với các hình thức xử phạt tiền, tịch thu tang vật, và buộc phải nộp lại số lợi bất hợp pháp, góp phần vào việc thực hiện chính sách phòng chống tệ nạn xã hội.
Mời bạn xem thêm:
- Mức phạt tiền thuế chậm nộp vi phạm hành chính về thuế, hóa đơn năm 2024
- Mức phạt vi phạm lối thoát nạn năm 2024
- Mức xử phạt đối với vi phạm về quá cảnh hàng hóa thế nào?
Câu hỏi thường gặp
Theo quy định tại khoản 7 Điều 3 Pháp lệnh số 10/2003/PL-UBTVQH11 về phòng, chống mại dâm: “Môi giới mại dâm là hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt của người làm trung gian để các bên thực hiện việc mua dâm, bán dâm.”.
Môi giới mại dâm là hành vi làm trung gian cho hoạt động mua, bán dâm. Người môi giới mại dâm có thể chủ động tạo điều kiện cho người có nhu cầu bán dâm gặp gỡ với người có nhu cầu mua dâm hoặc ngược lại, rồi để hai bên thỏa thuận về giá cả, địa điểm mua bán, thời gian… Tội môi giới mại dâm không chỉ trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, đồng thời còn xâm phạm đến đạo đức truyền thống, nếp sống văn minh và thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Chủ thể: chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt người đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.