Giao dịch dân sự với chính mình là gì?
Bộ luật Dân sự 2015 đã rõ ràng cấm việc một cá nhân hoặc pháp nhân thực hiện giao dịch dân sự với chính mình. Điều này không chỉ bao gồm việc xác lập các giao dịch mà còn cả việc thực hiện chúng. Mục đích của quy định này là để tránh xung đột lợi ích và đảm bảo sự công bằng và minh bạch trong các giao dịch. Khi một chủ thể thực hiện giao dịch với chính mình, có khả năng tạo ra tình trạng thiên vị hoặc gian lận, làm suy yếu niềm tin vào hệ thống pháp lý.
Theo quy định được nêu trong khoản 3 Điều 141 của Bộ luật Dân sự 2015, ngoại trừ trường hợp có quy định pháp lý đặc biệt, cá nhân hoặc pháp nhân có khả năng đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác. Tuy nhiên, có một số hạn chế không cho phép:
- Không được tự mình xác lập hoặc thực hiện các giao dịch dân sự.
- Không được thực hiện giao dịch với bên thứ ba khi mình đồng thời là người đại diện cho bên đó.
Điều này có nghĩa là, việc cá nhân hay tổ chức thực hiện giao dịch dân sự (thông qua hợp đồng, lời nói, hoặc hành vi pháp lý đơn phương) để thay đổi hoặc kết thúc quyền lợi và nghĩa vụ dân sự của chính họ là không được phép.
Điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực
Theo quy định, một người đại diện không được phép xác lập hoặc thực hiện giao dịch dân sự với chính họ hoặc với bên thứ ba nếu họ cũng là người đại diện cho bên đó. Quy định này nhằm ngăn chặn việc lạm dụng quyền lực và chức năng của người đại diện, bảo vệ lợi ích của các bên liên quan.
Theo quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015, giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
- Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
- Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
- Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định (Ví dụ: hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất bắt buộc phải lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực).
>>>Xem thêm: Mẫu giấy xác nhận lương
Quy định về giao dịch dân sự với chính mình
Sự vô hiệu của giao dịch dân sự khi vi phạm các điều cấm của luật. Theo Điều 123 Bộ luật Dân sự 2015, một giao dịch dân sự bị tuyên bố là vô hiệu nếu nó vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội. Điều này có nghĩa là giao dịch không tạo ra bất kỳ quyền hoặc nghĩa vụ nào giữa các bên từ thời điểm nó được thực hiện.
Hậu quả của hành vi giao dịch dân sự với chính mình sẽ tuỳ vào từng trường hợp cụ thể và với từng quy định khác nhau.
Vi phạm điều cấm của luật
Theo luật, việc thực hiện giao dịch dân sự với bản thân mình là không được phép. Nếu các bên vẫn tiến hành một giao dịch như vậy, giao dịch đó sẽ bị coi là vô hiệu do vi phạm Điều 123 của Bộ luật Dân sự 2015, vì vi phạm các điều cấm của luật và trái với đạo đức xã hội.
Theo quy định tại Điều 131 của Bộ luật Dân sự 2015, một giao dịch được tuyên bố là vô hiệu sẽ không tạo ra, thay đổi hoặc chấm dứt bất kỳ quyền hoặc nghĩa vụ nào giữa các bên từ lúc giao dịch đó được thực hiện.
Trong trường hợp này, các bên cần phải hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận được. Nếu việc hoàn trả trực tiếp không thể thực hiện được, giá trị tương ứng sẽ được quy đổi thành tiền để trả lại.
Do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện
Khi một người không được ủy quyền thực hiện giao dịch dân sự, theo Điều 142 Bộ luật Dân sự 2015, giao dịch này thường không tạo ra quyền hay nghĩa vụ cho người mà họ giả mạo đại diện, trừ một số ngoại lệ sau:
- Giao dịch được người được đại diện chính thức công nhận.
- Người được đại diện biết đến giao dịch nhưng không phản đối trong thời hạn hợp lý.
- Người được đại diện mắc lỗi khiến người thứ ba không biết hoặc không thể biết rằng người thực hiện giao dịch không có quyền đại diện.
Trong những trường hợp này, người không có quyền đại diện vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch, trừ khi người đó biết hoặc nên biết về sự thiếu quyền của đối phương.
Nếu người thứ ba không biết về sự thiếu quyền này, họ có quyền đơn phương chấm dứt hoặc hủy bỏ giao dịch và yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp họ vẫn tiến hành giao dịch mặc dù biết về tình hình, hoặc nếu người được đại diện đã công nhận giao dịch.
Trong tình huống cả người không có quyền đại diện và người tham gia giao dịch cố ý thực hiện giao dịch gây thiệt hại cho người được đại diện, cả hai phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cho người này.
Mời bạn xem thêm bài viết:
- Chuyển mục đích sử dụng đất tôn giáo sang đất ở được không?
- Thời hạn sử dụng đất cơ sở tôn giáo là bao lâu?
- Đất nuôi trồng thủy sản có được sử dụng vào mục đích công ích?
Câu hỏi thường gặp:
Một cá nhân không thể tự thực hiện giao dịch dân sự với chính mình trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Có 07 trường hợp giao dịch dân sự bị vô hiệu như sau:
Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội. (Điều 123 Bộ luật Dân sự 2015)
Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo. (Điều 124 Bộ luật Dân sự 2015)
Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện. (Điều 125 Bộ luật Dân sự 2015)
Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn. (Điều 126 Bộ luật Dân sự 2015)
Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép. (Điều 127 Bộ luật Dân sự 2015)
Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. (Điều 128 Bộ luật Dân sự 2015)
Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức. (Điều 129 Bộ luật Dân sự 2015)
❓ Câu hỏi: | Quy định về giao dịch dân sự với chính mình |
📰 Chủ đề: | Luật |
⏱ Thời gian đăng: | /03/2024 |
⏰ Ngày Cập nhật: | /03/2024 |