Ghi chú kết hôn là gì?
Ghi chú kết hôn là một bước quan trọng trong quá trình đăng ký kết hôn của công dân Việt Nam tại nước ngoài. Sau khi đã hoàn tất các thủ tục liên quan tại cơ quan có thẩm quyền của quốc gia đó, công dân cần tiếp tục thực hiện thủ tục ghi chú kết hôn tại Việt Nam. Điều này nhằm mục đích công nhận và bảo đảm các quyền lợi của họ cũng như chắc chắn quyền và lợi ích hợp pháp của vợ/chồng trong hồ sơ hộ tịch.
Quy trình này giúp chắc chắn rằng mọi thông tin về hôn nhân của công dân Việt Nam được cập nhật đầy đủ và chính xác trong Sổ hộ tịch. Đồng thời, việc ghi chú kết hôn cũng là cơ hội để cơ quan chức năng kiểm tra và xác nhận tình trạng hôn nhân, đồng thời thực hiện các biện pháp bảo vệ và đảm bảo quyền lợi của cả hai bên.
Việc này không chỉ là nghĩa vụ pháp lý mà còn là cơ hội để hệ thống chính trị và pháp luật nước nhà chấp nhận và tôn trọng quyết định của công dân trong việc chọn lựa đối tác cuộc sống. Qua đó, cộng đồng xã hội có thể đảm bảo rằng mọi quyền và trách nhiệm được bảo vệ, đồng thời góp phần xây dựng một xã hội hòa bình và phát triển.
Điều kiện ghi chú kết hôn là gì?
Cơ quan có thẩm quyền tại Việt Nam sẽ yêu cầu công dân nộp hồ sơ ghi chú kết hôn, trong đó bao gồm các giấy tờ và thông tin quan trọng như giấy chứng nhận kết hôn do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp, toàn bộ hồ sơ đăng ký kết hôn tại nước ngoài, và các giấy tờ khác liên quan. Quá trình này nhằm đảm bảo tính minh bạch và xác nhận hợp pháp của hôn nhân trong khuôn khổ của pháp luật Việt Nam.
Theo quy định tại Điều 34 của Nghị định 123/2015/NĐ-CP, việc ghi chú kết hôn vào Sổ hộ tịch của công dân Việt Nam tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đặt ra một số điều kiện quan trọng. Điều này nhằm đảm bảo rằng quá trình kết hôn được thực hiện đúng theo quy định pháp luật và bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan.
Đầu tiên, theo quy định, việc ghi chú kết hôn sẽ được thực hiện nếu việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau hoặc với người nước ngoài đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đó, và đồng thời, các bên đáp ứng đủ điều kiện kết hôn theo quy định và không vi phạm điều cấm theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam 2014.
Ngoài ra, quy định cũng xác định rằng nếu vào thời điểm đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền nước ngoài, việc kết hôn không đáp ứng đủ điều kiện, nhưng không vi phạm các điều cấm theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam 2014, và hậu quả đã được khắc phục hoặc việc ghi chú kết hôn nhằm bảo vệ quyền lợi của công dân Việt Nam và trẻ em, thì thông tin về việc kết hôn cũng sẽ được ghi vào Sổ hộ tịch.
Như vậy, quy định này không chỉ là một bước quan trọng trong quá trình xác nhận và công nhận hôn nhân, mà còn đặt ra một cơ chế linh hoạt để đảm bảo rằng mọi tình huống đều được xử lý công bằng và bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan.
>>>Xem thêm: Mẫu đơn đơn phương ly hôn mới nhất
Khi ghi chú kết hôn có cần cả hai vợ chồng cùng nhau thực hiện thủ tục này hay không?
Việc ghi chú kết hôn không chỉ là bước cần thiết để cập nhật thông tin về hôn nhân trong Sổ hộ tịch mà còn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hiện đúng quy trình và luật lệ khi công dân Việt Nam có hôn nhân được giải quyết tại nước ngoài. Điều này giúp bảo vệ quyền lợi và hợp pháp hóa tình trạng hôn nhân, đồng thời đóng góp vào sự hiệu quả của hệ thống quản lý thông tin về công dân trong nước.
Theo quy định của Điều 35 Nghị định 123/2015/NĐ-CP, việc thực hiện thủ tục ghi chú kết hôn đòi hỏi sự tuân thủ một trình tự và thủ tục cụ thể. Hồ sơ ghi chú kết hôn được chuẩn bị và nộp tại cơ quan có thẩm quyền theo quy định của Điều 48 Luật Hộ tịch, với các bước như sau:
Đầu tiên, một trong hai bên kết hôn cần nộp hồ sơ tại Ủy ban nhân dân cấp huyện, đơn vị quản lý Sổ hộ tịch nơi cư trú của công dân Việt Nam. Hồ sơ này bao gồm các giấy tờ cần thiết, như:
- Tờ khai theo mẫu quy định, nơi mô tả thông tin chi tiết về việc kết hôn.
- Bản sao Giấy tờ chứng nhận việc kết hôn do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp, là bằng chứng chính thức về hôn nhân của các bên.
- Nếu hồ sơ được gửi qua hệ thống bưu chính, cả hai vợ chồng cần nộp bản sao giấy tờ của cả hai, theo quy định tại Điều 2 Nghị định, để đảm bảo tính chính xác và đầy đủ của thông tin.
- Trong trường hợp công dân Việt Nam đã từng ly hôn hoặc hủy việc kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền nước ngoài, họ cần nộp trích lục về việc đã ghi vào Sổ hộ tịch việc ly hôn hoặc hủy việc kết hôn, theo quy định của Điều 37 Nghị định.
Đặc biệt, quy định rõ ràng rằng không bắt buộc cả hai vợ chồng phải cùng nhau nộp hồ sơ. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện thủ tục, giúp công dân có thể linh hoạt trong việc chuẩn bị và nộp hồ sơ mà không gặp khó khăn. Đồng thời, cơ chế này cũng thể hiện sự quan tâm đến sự thuận tiện và hiệu quả trong quá trình xác nhận thông tin hôn nhân của công dân Việt Nam.
Bài viết khác:
- Thủ tục cải chính thông tin trên giấy khai sinh năm 2024
- Thủ tục đăng ký mã số thuế cho văn phòng đại diện năm 2024
- Thủ tục nhập hộ khẩu cho Việt Kiều năm 2024
Câu hỏi thường gặp
Tại khoản 1 Điều 35 Nghị định 123/2015/NĐ-CP, hồ sơ ghi chú kết hôn do một trong hai bên kết hôn nộp tại cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại Khoản 1 Điều 48 Luật Hộ tịch 2014, gồm các giấy tờ sau đây:
– Tờ khai theo mẫu quy định tại Thông tư 04/2020/TT-BTP
– Bản sao Giấy tờ chứng nhận việc kết hôn do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp;
– Ngoài giấy tờ trên, nếu gửi hồ sơ qua hệ thống bưu chính thì còn phải nộp bản sao giấy tờ của cả hai bên nam, nữ quy định tại Khoản 1 Điều 2 Nghị định 123/2015/NĐ-CP như hộ chiếu, chứng minh nhân dân, thẻ căn cước công dân hoặc giấy tờ khác có dán ảnh và thông tin cá nhân do cơ quan có thẩm quyền cấp, còn giá trị sử dụng (sau đây gọi là giấy tờ tùy thân).
Nếu là công dân Việt Nam đã ly hôn hoặc hủy việc kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền nước ngoài thì phải nộp trích lục về việc đã ghi vào Sổ hộ tịch việc ly hôn hoặc hủy việc kết hôn theo quy định tại Khoản 2 Điều 37 Nghị định 123/2015/NĐ-CP.
Người có yêu cầu ghi vào Sổ hộ tịch việc kết hôn đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài (sau đây gọi là ghi chú kết hôn) nộp hồ sơ tại Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền.