Quy định pháp luật về biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú như thế nào?
Cấm đi khỏi nơi cư trú là một biện pháp ngăn chặn hết sức quan trọng trong hệ thống tố tụng hình sự, được thiết kế để áp dụng đối với các bị can và bị cáo có nơi cư trú cũng như lý lịch rõ ràng. Mục đích chính của biện pháp này là đảm bảo rằng những người bị buộc tội sẽ tuân thủ yêu cầu của các cơ quan chức năng, cụ thể là có mặt đúng thời hạn theo các giấy triệu tập từ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, hoặc Tòa án.
Theo quy định tại Điều 109 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự bao gồm một loạt các phương thức nhằm đảm bảo quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thực hiện hiệu quả. Những biện pháp này có thể được áp dụng khi có căn cứ chứng tỏ rằng người bị buộc tội có khả năng gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, tiếp tục phạm tội hoặc khi cần bảo đảm thi hành án. Cụ thể, cơ quan, người có thẩm quyền trong tố tụng có thể sử dụng các biện pháp như giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, hoặc tạm hoãn xuất cảnh. Những biện pháp này đều nhằm mục đích ngăn chặn việc trốn tránh pháp luật và đảm bảo sự có mặt của người bị buộc tội tại các phiên điều tra, truy tố, xét xử.
Đặc biệt, tại Điều 123 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, quy định về biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú được nêu rõ. Biện pháp này có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng, nhằm đảm bảo rằng họ sẽ có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, hoặc Tòa án. Cấm đi khỏi nơi cư trú là một biện pháp ngăn chặn quan trọng trong tố tụng hình sự, giúp ngăn chặn khả năng người bị buộc tội gây khó khăn cho quá trình tố tụng hoặc tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, đồng thời bảo đảm rằng các cơ quan chức năng có thể thực hiện công việc của mình một cách hiệu quả và đúng pháp luật.
Xem ngay: Luật cư trú 2020 số: 68/2020/QH14
Thẩm quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú
Cấm đi khỏi nơi cư trú giúp ngăn chặn tình trạng trốn tránh, bỏ trốn hoặc không thực hiện nghĩa vụ tham gia vào các giai đoạn tố tụng, từ đó bảo đảm rằng quá trình điều tra, truy tố, xét xử được thực hiện một cách đầy đủ và chính xác. Việc áp dụng biện pháp này không chỉ giúp giữ cho bị can, bị cáo luôn có mặt theo yêu cầu mà còn góp phần duy trì trật tự và kỷ luật trong quá trình tố tụng hình sự.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 123 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, các cơ quan và cá nhân có thẩm quyền được phép ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú bao gồm một số đối tượng cụ thể. Những người này bao gồm Thủ trưởng và Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp, Viện trưởng và Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cũng như Viện trưởng và Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp. Cụ thể hơn, Chánh án và Phó Chánh án Tòa án nhân dân, Chánh án và Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp, cùng với Hội đồng xét xử cũng có quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Đặc biệt, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và Đồn trưởng Đồn biên phòng cũng nằm trong số những người có thẩm quyền thực hiện biện pháp này. Điều này cho thấy sự đa dạng trong các cơ quan và cá nhân có trách nhiệm trong việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú nhằm đảm bảo sự hiện diện của các bị can, bị cáo và bảo vệ sự chính xác của quá trình tố tụng.
Mẫu lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án
Cấm đi khỏi nơi cư trú đảm bảo sự công bằng trong việc xử lý các vụ án và tăng cường hiệu quả của hệ thống pháp luật, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan, đồng thời tạo điều kiện cho một quá trình tố tụng minh bạch và chính xác hơn. Mẫu lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án hiện nay như sau:
Câu hỏi thường gặp
Theo khoản 1 Điều 123 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, cấm đi khỏi nơi cư trú có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng.
Trường hợp bị can, bị cáo vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng ý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc đơn vị quân đội quản lý họ và phải có giấy cho phép của người đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.
(Khoản 5 Điều Điều 123 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015)