Bị lừa đảo qua mạng, tố cáo ở đâu?
Thông thường, việc xác định chính xác thông tin của kẻ lừa đảo trong các vụ lừa đảo qua mạng là rất khó khăn, vì các đối tượng thường sử dụng thông tin giả mạo hoặc ẩn danh để che giấu danh tính của mình. Do đó, nạn nhân thường gặp khó khăn khi tự mình thu hồi số tiền bị lừa đảo. Trong trường hợp này, thay vì cố gắng tự giải quyết, nạn nhân nên nhờ đến sự hỗ trợ của các cơ quan có thẩm quyền. Theo quy định tại Điều 145 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Điều 5 Thông tư liên tịch 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC, các cơ quan và tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tin báo và tố giác về tội phạm bao gồm cơ quan điều tra, các cơ quan được giao nhiệm vụ điều tra, Viện kiểm sát các cấp, cũng như các cơ quan khác như công an xã, phường, thị trấn, đồn công an, trạm công an, tòa án các cấp, và cơ quan báo chí. Do đó, nạn nhân của các vụ lừa đảo qua mạng có thể tố cáo hành vi phạm tội tới các cơ quan này để được giải quyết kịp thời và hiệu quả.
Truy cứu TNHS tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như thế nào?
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi phạm tội mà một cá nhân hoặc tổ chức sử dụng các thủ đoạn gian dối, lừa dối để chiếm đoạt tài sản của người khác một cách bất hợp pháp. Hành vi này thường nhằm mục đích cá nhân hoặc tổ chức thu lợi tài chính không hợp pháp bằng cách đánh lừa người khác, khiến họ tin tưởng và chuyển nhượng tài sản của mình. Đối tượng phạm tội thường sử dụng những chiêu trò, thông tin giả mạo, hoặc các phương pháp lừa đảo để đánh lừa nạn nhân. Thủ đoạn này có thể bao gồm việc giả mạo danh tính, sử dụng thông tin sai lệch, hoặc xây dựng các tình huống giả tưởng.
Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định rõ ràng trong Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi bởi điểm a, c Khoản 3 Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017. Theo đó, người thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ 2 triệu đến 50 triệu đồng, hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng thuộc các trường hợp cụ thể sẽ phải đối mặt với mức án nghiêm khắc. Cụ thể, người phạm tội có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm nếu:
- Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng vẫn tiếp tục vi phạm.
- Đã bị kết án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc các tội quy định tại các điều từ 168 đến 175 và Điều 290 của Bộ luật Hình sự 2015, mà chưa được xóa án tích nhưng vẫn tiếp tục phạm tội.
- Hành vi lừa đảo gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội.
- Tài sản chiếm đoạt là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
Trong các trường hợp nghiêm trọng hơn, mức án cao nhất có thể lên đến tù chung thân. Bên cạnh đó, người phạm tội còn có thể bị áp dụng các hình phạt bổ sung như phạt tiền từ 10 triệu đến 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc thực hiện công việc nhất định từ 01 đến 05 năm, hoặc bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Những quy định này nhằm mục đích răn đe và ngăn chặn hành vi lừa đảo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân.
Xem ngay: Người phạm tội có thể đầu thú tại cơ quan nào
Mẫu đơn tố giác tội phạm lừa đảo qua mạng mới năm 2024
Tố giác tội phạm lừa đảo qua mạng là hành động thông báo hoặc cung cấp thông tin cho các cơ quan có thẩm quyền về việc một cá nhân hoặc tổ chức đã thực hiện hành vi lừa đảo qua mạng internet hoặc các phương tiện điện tử. Đây là một bước quan trọng để đưa những đối tượng vi phạm pháp luật ra trước công lý và ngăn chặn các hành vi phạm tội tương tự trong tương lai. Mời quý bạn đọc tải xuống Mẫu đơn tố giác tội phạm lừa đảo qua mạng mới năm 2024 tại đây:
Câu hỏi thường gặp
Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác.
Thủ đoạn gian đối của người phạm tội là những hành vi nhằm tạo ra thông tin sai lệch, không đúng sự thật để đánh lừa người khác.
Hành vi chiếm đoạt tài sản có thể là chiếm đoạt tiền, vàng, kim loại quý, vật dụng có giá trị,…
Mặt chủ quan tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi được thực hiện bởi lỗi cố ý trực tiếp.
Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là gian dối và biết rằng thông tin mình cung cấp là sai lệch, không đúng sự thật. Người phạm tội cũng nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là trái pháp luật.